Nội dung và mức độ trong Bảo tồn di tích
1- Bảo quản: Preservation.
2- Gia cố: Consolidation.
3- Tu sửa ( Tu bổ ): Conservation.
4- Phục hồi từng phần: Partial restoration.
5- Phục hồi toàn phần: Restoration, Reconstruction.
6- Tôn tạo: Renovation.
7- Thích nghi: Adaptation.
2- Gia cố: Consolidation.
3- Tu sửa ( Tu bổ ): Conservation.
4- Phục hồi từng phần: Partial restoration.
5- Phục hồi toàn phần: Restoration, Reconstruction.
6- Tôn tạo: Renovation.
7- Thích nghi: Adaptation.
Quan điểm hiện tại về công tác Bảo tồn di tích
- Quan điểm lịch sử
- Bảo tồn tính nguyên gốc
- Quan điểm bảo tồn - bảo quản hiện vật
- Quan điểm Di tích phục vụ đời sống đương đại.
Di tích là cái của ông cha ta để lại mang nhiều ý nghĩa.
Khi chưa hiểu hết về nó thì không được phá bỏ mà phải giữ gìn nguyên gốc.
- Bảo tồn tính nguyên gốc
- Quan điểm bảo tồn - bảo quản hiện vật
- Quan điểm Di tích phục vụ đời sống đương đại.
Di tích là cái của ông cha ta để lại mang nhiều ý nghĩa.
Khi chưa hiểu hết về nó thì không được phá bỏ mà phải giữ gìn nguyên gốc.
Di sản Văn Hóa không đơn giản chỉ là liên quan đến vấn đề Tôn giáo tín ngưỡng. Nó phản ảnh Văn hóa Xã hội.
Các thời kỳ phát triển và sự hình thành Di tích kiến trúc.
Khi nói đến Di tích một người bình thường quan tâm đầu tiên đó là Di tích loại gì ( Đình, Đền,Chùa, Miếu thờ, nhà thờ Tổ, lăng mộ quận công...) Sau đó là không gian và vẻ đẹp cổ kính hoặc quy mô của Di tích với các hạng mục công trình được khởi dựng vào thời điểm nào, phần nào là nguyên gốc phần nào được trùng tu, phần nào đã được xây mới....
Nhưng để có thể hiểu được điều đó một cách dễ dàng, chính xác thì chúng ta cũng nên tìm hiểu qua một phần nào đó về lịch sử Văn hóa, các thời kỳ phát triển ở mỗi thời kỳ mỗi vùng miền của đất nước.
Thời Lý: Tập trung ở Thăng Long - Bắc Ninh - Ven biển đến bắc sông Mã (Thanh Hóa). Vùng trực trị của triều Lý. Các loại hình di tích kiến trúc còn tồn tại tập trung ở Thăng Long
Các loại hình Di tích thời Lý cho đến nay phát hiện được cơ bản chỉ có kiến trúc Chùa, văn miếu, quán đạo, một số đền, đình (mà không phải đình làng).
Nhà Lý xây dựng nhiều công trình ở Thăng Long chủ yếu ở vùng Bách Thảo, Quần Ngựa cũ - nơi có nhiều gò đồi, nơi đây đã tìm thấy đá tảng thành bậc, trụ đá rồng ổ.
Các triều đại quân chủ chuyên chế ở nước ta đều có nguồn gốc từ thành phần xã hội cơ bản gắn với nông nghiệp, hầu như triều đại nào cũng chú ý đến quê hương (gốc gác, vùng phát tích). Nhà Lý cũng đặc biệt chú ý đến quê hương vùng Bắc Ninh. Nơi đây có những ngôi chùa kiêm hành cung như chùa Phật Tích trên núi Lạn Kha, chùa Long Hạm ở Quế Võ, chùa Bà Tấm ở Gia Lâm, chùa Hương Lãng ở Văn Lâm (Hưng Yên).
Cũng trên đất Bắc Ninh chúng ta còn thấy những ngôi chùa có yếu tố của dân, có thể có sự tham gia của quan lại hay nhà sư danh tiếng nào đó như chùa Tiêu Sơn (Từ Sơn - Bắc Ninh) gắn với nhà sư Vạn Hạnh. chùa Chèo (Hiệp Hòa - Bắc Ninh cũ) còn lại bệ Phật thời Lý.
Một tuyến phát triển khác của di tích nhà Lý chủ yếu tập trung vào con sông Đáy và các chi lưu của nó, là nơi giao thông huyết mạch đương thời. Theo dòng chảy của con sông này và chi lưu có hai di tích lớn mang tính hành cung là chùa Long Đọi (Hà Nam) ở gần Châu Giang. Chùa thứ hai là Chương Sơn (Nam Đinh) nằm trên núi gần sông Sắt.
Một tuyến khác cũng có thể men theo ven biển mà di tích nổi tiếng là kiêm hành cung sát bờ biển trên gò đồi là chùa Tường Long (Kiến An - Hải Phòng). Ven theo đường biển đến phía Bắc Thanh Hóa mới gặp dấu tích của Lý Thường Kiệt, trong đó dấu tích thời Lý ở chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh. Chùa có dấu vết thời Lý còn lại cụ thể như chùa Linh Xứng với tấm bia niên đại 1126 - đó là tấm bia có rùa đội sớm nhất nước ta hiện nay.
Niên đại chung của Di tích thời Lý còn lại tập trung vào năm 1056 - 1126.
Thời nguyên phi Ỷ Lan và thời kỳ chống quân Tống, quân Chiêm.
Thời Trần: Có sự thay đổi khá lớn về nhiều mặt thượng tầng và hạ tầng xã hội, lúc này ý thức quốc gia độc lập đã mạnh hơn thời Lý, sức mạnh chính trị và quân sự của nhà Trần cũng tiến bộ hơn nhà Lý nhiều. Cuộc chiến chống xâm lược của Nguyên Mông thì ý thức ứng xử với dân chúng cũng đã khoáng đạt hơn rất nhiều. Nhà Trần hầu như không còn chùa kiêm hành cung nữa. Thời Trần cũng có đền Thiên Trường cho Thượng hoàng ở. Song nơi đó có chùa Phổ Minh là kiến trúc Phật giáo riêng, còn cung điện lại là hệ thống khác. Yên Tử thì hầu như hoàn toàn chốn tu hành, cựu hoàng cũng đồng thời là nhà tu hành. Như vậy vẫn có loại của Triều đình, song hầu như không có ngôi chùa kiêm cung điện.Các đền, chùa thời nhà Trần từng xây rất nhiều, các đồn điền trên núi để coi sóc quân địch cụ thể như Chùa Hương - Hà Tĩnh là dấu ấn đời Trần và còn có trước cà chùa Hương - Hà Nội (Hà Tây cũ) là liên quan tới sự phòng vệ của dân tộc trước việc quân Ô Mã Nhi từ Chiêm Thành vào Đại Việt. Phía Bắc con đường xâm lược của Mộc Thạch vào các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang cũng được quan tâm khá kỹ nên có nhiều đồn điền mang dấu ấn nhà Trần. Yên Tử trước tiên cũng là một tiền đồn của nhà Trần vậy nên yếu tố Chính trị và Quân sự cũng đã có trong Di tích.
Chùa thời Trần có kiến trúc Tháp và vẫn có Phật điện phía sau mà thời Lý không có (VD: chùa Phổ Minh - Nam Định)
Đạo Phật thời Trần là triết học vô thần, từ bi nhưng thoát tục.
Dấu tích các ngôi Đền cũng xuất hiện thời Trần (mà thời Lý chưa thực sự có).
Thời Lê sơ: Sau khi đuổi được quân Minh ra khỏi đất nước, nhà Lê Sơ không thúc đẩy cho nền văn hóa dân gian phát triển hay đúng hơn là không tạo điều kiện cho kinh tế và tín ngưỡng dân gian phát triển. Phần nào đã cấm đoán Phật và Đạo, đề cao Nho giáo nên dấu tích kiến trúc chung dưới thế kỷ 15 để lại ở châu thổ Sông Hồng không rõ rệt lắm. Sự thay đổi cơ chế thượng tầng từ quân chủ chuyên chế Phật giáo sang quân chủ chuyên chế Nho giáo nên ở Thăng Long hệ thống cung điện đã được chuyển từ phía Tây sang gò đất nổi phía Đông, đã tạo nên điện Kính Thiên mà hiện nay còn dấu vết nền và gạch xây, theo kiểu "hòm sớ" để trơn. Kiến trúc Đình đã bắt đầu xuất hiện manh nha vào thời này phát triển kinh tế giao thương buôn bán rất mạnh và kiến trúc Lăng mộ đã rõ ràng hơn nhiều.
Các Di tích thời Lê Sơ đáng quan tâm hơn cả là dấu tích trên đất Bắc và phía Nam liên quan đến sự xác nhận vai trò của triều đình với các vùng xa xôi. Vùng Hạ Long và núi Bài Thơ là một điểm xác nhận về chủ quyền của người Việt đối với vùng Đông Bắc, và ở phía Tây, nhà Lê Sơ đã để lại những tấm bia xác nhận việc đi "kinh lý" của nhà vua vào năm 1431 trên đất Hòa Bình và Sơn La.
Về mặt địa chính trị, chính từ Phú Yên (miền Nam Trung bộ) hiện nay vẫn nhìn hòn đá trên đỉnh núi Đá Bia là mốc giới của nhà Lê Sơ.
Di tích thời Lê Sơ tuy còn để lại rất ít nhưng dấu vết của chúng lại rất quan trọng, nó nói lên sự lan tỏa văn hóa đã đánh dấu về thực chất địa bàn thống nhất cộng đồng dânn tộc ngày một chặt chẽ và rộng lớn hơn.
Thời Mạc: Vào thế kỷ thứ 16 và có thể chia làm hai giai đoạn
Giai đoạn đầu nhà Mạc di tích phát triển khá mạnh và quan tâm nhiều đến vùng Hải Phòng và Hải Dương và đê lại nhiều dấu tích văn hóa đậm đặc hơn ở những vùng đất có nhiều di tích trước đó. Hệ thống chùa Tứ pháp của Bắc Ninh, Hưng Yên, hệ thống các ngôi đền gắn với tứ bất tử: Tản Viên, CHử Đồng Tử, Thánh Gióng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh (đền Và, đền Đông Kết, đền Phù Đổng...). Ở phía Nam của di tích thời Mạc đã tới tận chùa Ngang (Hà Tĩnh). Do chủ yếu phát triển thương mại nên di tích thời này không vươn lên những vùng biên viễn thưa dân nghèo nàn, mà chủ yếu theo các triền sông lan tỏa đến vùng trung du.
Cụ thể đã thấy xuất hiện ở vùng dưới của Phú Thọ, Vĩnh Phúc như chùa Thượng Trưng ở Vĩnh Tường. Thời Mạc đã khai thác mạnh hơn ở góc độ kinh tế của Sông Hồng và dấu tích của ven sông này. Nhà Mạc đã có chú ý tới các di tích đã có từ thời gian trước để bổ sung tôn tạo, điển hình như đình Tây Đằng, Thanh Lũng, Thụy Phiêu, chùa Nả, chùa Thầy, chùa Ngo, chùa Bối Khê và một số chùa khác. Trên các tuyến khác thì thời Mạc cũng để lại những kiến trúc như đình Lỗ Hạnh, đình Thổ Hà (Bắc Giang).
Vào cuối thế kỷ 16, tuy trên đất Bắc vẫn nằm trong sự phát triển kinh tế xã hội của nhà Mạc, nhưng cũng là thời kỳ nhà Lê - Trịnh đã nổi lên ở Thanh Hóa khiến cho dấu tích nhà Mạc mất hẳn từ đất Thanh Hóa trở vào phía trong.
Nhà Mạc coi như chấm dứt vào cuối thế kỷ 16, sau đó triều đại Mạc chuyển lên Cao Bằng và duy trì cho đến vài chục năm sau đó ở vùng đất này. Hiện nay kiến trúc của thời Mạc đã để lại đấu vết về một số thành bằng gạch xây gần biên giới Việt - Trung.
Thời Lê Trung hưng: Sự suy yếu của chính quyền trung ương đã thúc đẩy cho nghệ thuật thôn dã phát triển vào cuối thế kỷ 17, mà một biểu hiện cụ thể tập trung nhất là nghệ thuật đỉnh cao về Đình làng - một kiến trúc to nhất của làng. Đình làng đã đáp ứng được yêu cầu của mọi tầng lớp trong xã hội vừa thỏa mãn yêu cầu của chính quyền và người dân, đồng thời đáp ứng được cả các yêu cầu tín ngưỡng khi đạo Phật và cả đạo Nho cùng khủng hoảng.
Thực tế những ngôi chùa kiểu trăm gian thường được phát triển vào khoảng những năm 30 - 60 của thế kỷ 17 thì đình làng đã đạt đến đỉnh cao chủ yếu vào những năm 80 - 90 của thế kỷ này.
Những di sản văn hóa vật thể còn lại cho đến nay đôi khi chúng xuất hiện muộn hơn so với sự kiện lịch sử. Ví dụ như sự kiện Huyền Trân công chúa, đất của Đại Việt đã vượt qua xứ Huế, nhưng dấu vết văn hóa nhà Trần để lại thì chưa được biết đến vùng đất này. Nhà Lê Sơ và nhà Mạc cũng như vậy, nên chỉ coi như đấy là vùng đệm và lệ thuộc vào triều đình mà thôi. Vào thế kỷ 17 -18 người Việt (Kinh) mà một phần là dân Bắc bộ đã khai phá châu thổ Nam bộ, họ được sống trong một tổ chức khác nên không cho phép họ để lại các công trình văn hóa công cộng như trên đất Bắc.
Thông qua các công trình văn hóa cũng cho ta thấy rằng giới tuyến phân chia Trịnh - Nguyễn chỉ là thứ ranh giới có tính chất chính trị gắn với quyền lực của các tập đoàn thống trị chứ không phải là ranh giới quốc gia, nó cũng không ngăn được lòng người và văn hóa qua lại. Ngoài dấu vết bia ma nhai (bia khắc vào vách núi) thì đường biển hầu như không hạn chế quan hệ giữa hai miền, mà dấu tích là các con tàu đắm với nhiều đồ gốm sứ Trung Hoa và Bắc bộ thuộc vùng Nam Trung bộ..
Tính chất tư nhân cũng đã phát triển mạnh trong các di tích thời này.
Thời Nguyễn: Trong thế kỷ 19, sự phát triển đô thị với kinh tế thương mại có xu hướng vượt ra ngoài nông nghiệp, buôn bán trong Nam ngoài Bắc, vượt lên cả vùng biên viễn để phát triển ngoại thương với Trung Hoa và các nước xung quanh... Hiện tượng một số di tích chuyển đổi "chủ nhân" vượt ra ngoài không gian làng xã và được đóng góp của cả giới thương mại (chủ yếu là người Kinh và người Hoa).
Chính sách của nhà Nguyễn nhất là thời Minh Mạng trở đi cũng đã khuyến khích cho các làng, xã dựng đình, về cơ bản triều đình nhắc lại đấy là trụ sở, một dấu ấn của triều đình đặt vào các làng xóm xa xôi. Các điều kiện như vậy nên di tích kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo ở thế kỷ 19 được tràn lan khắp nơi. Trên đất Bắc các kiến trúc này còn tương đối rành mạch theo chức năng của loại hình, đồng thời cũng thấy nhiều điện thờ Mẫu và các thần linh liên quan xuất hiện trên các con đường thương mại. Miền Nam nói chung di tích tôn giáo tín ngưỡng vẫn thưa thớt, ngoài nhưng ngôi chùa Khme thì di tích của tộc người chủ thể vẫn còn thiếu vắng và chưa được định hình thành một phong cách, bố cục nhất định. Sợ phân định về tính chất của dình và đền cũng không rõ ràng, kể cả đến công trình điển hình như chùa Giác Lâm.
Tuy nhiên sự ảnh hưởng của triều đình nhà Nguyễn và người Kinh chưa lên được Tây Nguyên, hay nói cách khác là chưa để lại "dấu vết" nào về văn hóa vật thể của tộc người chủ thể trên mảnh đất này.
Chỉ tới thế kỷ 20 những ngôi chùa và một vài di tích khác mới xuất hiện dần theo bước chân người Kinh lên khai phá lập đô thị ở vùng đất này. Có nghĩa chỉ đến thế kỷ 20 dòng kiến trúc nghệ thuật chung mới được gần như thống nhất.
Rõ ràng bằng những di sản văn hóa kiến trúc cụ thể, dù có mang danh nghĩa liên quan đến tôn giáo nhưng thực sự ý nghĩa những công trình kiến trúc này cao hơn cái vỏ tín ngưỡng của nó. Phản ánh về quá trình phát triển của cộng đồng đi tới thống nhất hoàn toàn, mà sự thống nhất hoàn toàn ấy về cơ bản phải là sự thống nhất văn hóa, lấy hạt nhân từ tộc người chủ thể.
Việt Nam trong quá trình phát triển từ địa bàn nhỏ tới lớn thì trong quá khứ chưa lần nào được thống nhất trọn vẹn. Thời Tây Sơn thì tự anh em nhà Nguyễn chia đất nước thành các quốc gia mà mỗi người làm vua một phương. Thời Nguyễn thì vùng cao Tây Nguyên cũng chưa lên được, thời Pháp thì lại chia đất nước thành ba miền với ba chế độ khác nhau... Qua sự phân bố di tích trong quá khứ, ta thấy đất nước chỉ thực sự được thống nhất sau ngày 30/4/1975 mà thôi. Thực tế đã được chứng minh một cách cụ thể nhất ở lĩnh vực kiến trúc.
"Tin Ta mà không hiểu Ta tức là phỉ báng Ta" (lời Phật dạy)
Nhưng để có thể hiểu được điều đó một cách dễ dàng, chính xác thì chúng ta cũng nên tìm hiểu qua một phần nào đó về lịch sử Văn hóa, các thời kỳ phát triển ở mỗi thời kỳ mỗi vùng miền của đất nước.
Thời Lý: Tập trung ở Thăng Long - Bắc Ninh - Ven biển đến bắc sông Mã (Thanh Hóa). Vùng trực trị của triều Lý. Các loại hình di tích kiến trúc còn tồn tại tập trung ở Thăng Long
Các loại hình Di tích thời Lý cho đến nay phát hiện được cơ bản chỉ có kiến trúc Chùa, văn miếu, quán đạo, một số đền, đình (mà không phải đình làng).
Nhà Lý xây dựng nhiều công trình ở Thăng Long chủ yếu ở vùng Bách Thảo, Quần Ngựa cũ - nơi có nhiều gò đồi, nơi đây đã tìm thấy đá tảng thành bậc, trụ đá rồng ổ.
Các triều đại quân chủ chuyên chế ở nước ta đều có nguồn gốc từ thành phần xã hội cơ bản gắn với nông nghiệp, hầu như triều đại nào cũng chú ý đến quê hương (gốc gác, vùng phát tích). Nhà Lý cũng đặc biệt chú ý đến quê hương vùng Bắc Ninh. Nơi đây có những ngôi chùa kiêm hành cung như chùa Phật Tích trên núi Lạn Kha, chùa Long Hạm ở Quế Võ, chùa Bà Tấm ở Gia Lâm, chùa Hương Lãng ở Văn Lâm (Hưng Yên).
Cũng trên đất Bắc Ninh chúng ta còn thấy những ngôi chùa có yếu tố của dân, có thể có sự tham gia của quan lại hay nhà sư danh tiếng nào đó như chùa Tiêu Sơn (Từ Sơn - Bắc Ninh) gắn với nhà sư Vạn Hạnh. chùa Chèo (Hiệp Hòa - Bắc Ninh cũ) còn lại bệ Phật thời Lý.
Một tuyến phát triển khác của di tích nhà Lý chủ yếu tập trung vào con sông Đáy và các chi lưu của nó, là nơi giao thông huyết mạch đương thời. Theo dòng chảy của con sông này và chi lưu có hai di tích lớn mang tính hành cung là chùa Long Đọi (Hà Nam) ở gần Châu Giang. Chùa thứ hai là Chương Sơn (Nam Đinh) nằm trên núi gần sông Sắt.
Một tuyến khác cũng có thể men theo ven biển mà di tích nổi tiếng là kiêm hành cung sát bờ biển trên gò đồi là chùa Tường Long (Kiến An - Hải Phòng). Ven theo đường biển đến phía Bắc Thanh Hóa mới gặp dấu tích của Lý Thường Kiệt, trong đó dấu tích thời Lý ở chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh. Chùa có dấu vết thời Lý còn lại cụ thể như chùa Linh Xứng với tấm bia niên đại 1126 - đó là tấm bia có rùa đội sớm nhất nước ta hiện nay.
Niên đại chung của Di tích thời Lý còn lại tập trung vào năm 1056 - 1126.
Thời nguyên phi Ỷ Lan và thời kỳ chống quân Tống, quân Chiêm.
Thời Trần: Có sự thay đổi khá lớn về nhiều mặt thượng tầng và hạ tầng xã hội, lúc này ý thức quốc gia độc lập đã mạnh hơn thời Lý, sức mạnh chính trị và quân sự của nhà Trần cũng tiến bộ hơn nhà Lý nhiều. Cuộc chiến chống xâm lược của Nguyên Mông thì ý thức ứng xử với dân chúng cũng đã khoáng đạt hơn rất nhiều. Nhà Trần hầu như không còn chùa kiêm hành cung nữa. Thời Trần cũng có đền Thiên Trường cho Thượng hoàng ở. Song nơi đó có chùa Phổ Minh là kiến trúc Phật giáo riêng, còn cung điện lại là hệ thống khác. Yên Tử thì hầu như hoàn toàn chốn tu hành, cựu hoàng cũng đồng thời là nhà tu hành. Như vậy vẫn có loại của Triều đình, song hầu như không có ngôi chùa kiêm cung điện.Các đền, chùa thời nhà Trần từng xây rất nhiều, các đồn điền trên núi để coi sóc quân địch cụ thể như Chùa Hương - Hà Tĩnh là dấu ấn đời Trần và còn có trước cà chùa Hương - Hà Nội (Hà Tây cũ) là liên quan tới sự phòng vệ của dân tộc trước việc quân Ô Mã Nhi từ Chiêm Thành vào Đại Việt. Phía Bắc con đường xâm lược của Mộc Thạch vào các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang cũng được quan tâm khá kỹ nên có nhiều đồn điền mang dấu ấn nhà Trần. Yên Tử trước tiên cũng là một tiền đồn của nhà Trần vậy nên yếu tố Chính trị và Quân sự cũng đã có trong Di tích.
Chùa thời Trần có kiến trúc Tháp và vẫn có Phật điện phía sau mà thời Lý không có (VD: chùa Phổ Minh - Nam Định)
Đạo Phật thời Trần là triết học vô thần, từ bi nhưng thoát tục.
Dấu tích các ngôi Đền cũng xuất hiện thời Trần (mà thời Lý chưa thực sự có).
Thời Lê sơ: Sau khi đuổi được quân Minh ra khỏi đất nước, nhà Lê Sơ không thúc đẩy cho nền văn hóa dân gian phát triển hay đúng hơn là không tạo điều kiện cho kinh tế và tín ngưỡng dân gian phát triển. Phần nào đã cấm đoán Phật và Đạo, đề cao Nho giáo nên dấu tích kiến trúc chung dưới thế kỷ 15 để lại ở châu thổ Sông Hồng không rõ rệt lắm. Sự thay đổi cơ chế thượng tầng từ quân chủ chuyên chế Phật giáo sang quân chủ chuyên chế Nho giáo nên ở Thăng Long hệ thống cung điện đã được chuyển từ phía Tây sang gò đất nổi phía Đông, đã tạo nên điện Kính Thiên mà hiện nay còn dấu vết nền và gạch xây, theo kiểu "hòm sớ" để trơn. Kiến trúc Đình đã bắt đầu xuất hiện manh nha vào thời này phát triển kinh tế giao thương buôn bán rất mạnh và kiến trúc Lăng mộ đã rõ ràng hơn nhiều.
Các Di tích thời Lê Sơ đáng quan tâm hơn cả là dấu tích trên đất Bắc và phía Nam liên quan đến sự xác nhận vai trò của triều đình với các vùng xa xôi. Vùng Hạ Long và núi Bài Thơ là một điểm xác nhận về chủ quyền của người Việt đối với vùng Đông Bắc, và ở phía Tây, nhà Lê Sơ đã để lại những tấm bia xác nhận việc đi "kinh lý" của nhà vua vào năm 1431 trên đất Hòa Bình và Sơn La.
Về mặt địa chính trị, chính từ Phú Yên (miền Nam Trung bộ) hiện nay vẫn nhìn hòn đá trên đỉnh núi Đá Bia là mốc giới của nhà Lê Sơ.
Di tích thời Lê Sơ tuy còn để lại rất ít nhưng dấu vết của chúng lại rất quan trọng, nó nói lên sự lan tỏa văn hóa đã đánh dấu về thực chất địa bàn thống nhất cộng đồng dânn tộc ngày một chặt chẽ và rộng lớn hơn.
Thời Mạc: Vào thế kỷ thứ 16 và có thể chia làm hai giai đoạn
Giai đoạn đầu nhà Mạc di tích phát triển khá mạnh và quan tâm nhiều đến vùng Hải Phòng và Hải Dương và đê lại nhiều dấu tích văn hóa đậm đặc hơn ở những vùng đất có nhiều di tích trước đó. Hệ thống chùa Tứ pháp của Bắc Ninh, Hưng Yên, hệ thống các ngôi đền gắn với tứ bất tử: Tản Viên, CHử Đồng Tử, Thánh Gióng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh (đền Và, đền Đông Kết, đền Phù Đổng...). Ở phía Nam của di tích thời Mạc đã tới tận chùa Ngang (Hà Tĩnh). Do chủ yếu phát triển thương mại nên di tích thời này không vươn lên những vùng biên viễn thưa dân nghèo nàn, mà chủ yếu theo các triền sông lan tỏa đến vùng trung du.
Cụ thể đã thấy xuất hiện ở vùng dưới của Phú Thọ, Vĩnh Phúc như chùa Thượng Trưng ở Vĩnh Tường. Thời Mạc đã khai thác mạnh hơn ở góc độ kinh tế của Sông Hồng và dấu tích của ven sông này. Nhà Mạc đã có chú ý tới các di tích đã có từ thời gian trước để bổ sung tôn tạo, điển hình như đình Tây Đằng, Thanh Lũng, Thụy Phiêu, chùa Nả, chùa Thầy, chùa Ngo, chùa Bối Khê và một số chùa khác. Trên các tuyến khác thì thời Mạc cũng để lại những kiến trúc như đình Lỗ Hạnh, đình Thổ Hà (Bắc Giang).
Vào cuối thế kỷ 16, tuy trên đất Bắc vẫn nằm trong sự phát triển kinh tế xã hội của nhà Mạc, nhưng cũng là thời kỳ nhà Lê - Trịnh đã nổi lên ở Thanh Hóa khiến cho dấu tích nhà Mạc mất hẳn từ đất Thanh Hóa trở vào phía trong.
Nhà Mạc coi như chấm dứt vào cuối thế kỷ 16, sau đó triều đại Mạc chuyển lên Cao Bằng và duy trì cho đến vài chục năm sau đó ở vùng đất này. Hiện nay kiến trúc của thời Mạc đã để lại đấu vết về một số thành bằng gạch xây gần biên giới Việt - Trung.
Thời Lê Trung hưng: Sự suy yếu của chính quyền trung ương đã thúc đẩy cho nghệ thuật thôn dã phát triển vào cuối thế kỷ 17, mà một biểu hiện cụ thể tập trung nhất là nghệ thuật đỉnh cao về Đình làng - một kiến trúc to nhất của làng. Đình làng đã đáp ứng được yêu cầu của mọi tầng lớp trong xã hội vừa thỏa mãn yêu cầu của chính quyền và người dân, đồng thời đáp ứng được cả các yêu cầu tín ngưỡng khi đạo Phật và cả đạo Nho cùng khủng hoảng.
Thực tế những ngôi chùa kiểu trăm gian thường được phát triển vào khoảng những năm 30 - 60 của thế kỷ 17 thì đình làng đã đạt đến đỉnh cao chủ yếu vào những năm 80 - 90 của thế kỷ này.
Những di sản văn hóa vật thể còn lại cho đến nay đôi khi chúng xuất hiện muộn hơn so với sự kiện lịch sử. Ví dụ như sự kiện Huyền Trân công chúa, đất của Đại Việt đã vượt qua xứ Huế, nhưng dấu vết văn hóa nhà Trần để lại thì chưa được biết đến vùng đất này. Nhà Lê Sơ và nhà Mạc cũng như vậy, nên chỉ coi như đấy là vùng đệm và lệ thuộc vào triều đình mà thôi. Vào thế kỷ 17 -18 người Việt (Kinh) mà một phần là dân Bắc bộ đã khai phá châu thổ Nam bộ, họ được sống trong một tổ chức khác nên không cho phép họ để lại các công trình văn hóa công cộng như trên đất Bắc.
Thông qua các công trình văn hóa cũng cho ta thấy rằng giới tuyến phân chia Trịnh - Nguyễn chỉ là thứ ranh giới có tính chất chính trị gắn với quyền lực của các tập đoàn thống trị chứ không phải là ranh giới quốc gia, nó cũng không ngăn được lòng người và văn hóa qua lại. Ngoài dấu vết bia ma nhai (bia khắc vào vách núi) thì đường biển hầu như không hạn chế quan hệ giữa hai miền, mà dấu tích là các con tàu đắm với nhiều đồ gốm sứ Trung Hoa và Bắc bộ thuộc vùng Nam Trung bộ..
Tính chất tư nhân cũng đã phát triển mạnh trong các di tích thời này.
Thời Nguyễn: Trong thế kỷ 19, sự phát triển đô thị với kinh tế thương mại có xu hướng vượt ra ngoài nông nghiệp, buôn bán trong Nam ngoài Bắc, vượt lên cả vùng biên viễn để phát triển ngoại thương với Trung Hoa và các nước xung quanh... Hiện tượng một số di tích chuyển đổi "chủ nhân" vượt ra ngoài không gian làng xã và được đóng góp của cả giới thương mại (chủ yếu là người Kinh và người Hoa).
Chính sách của nhà Nguyễn nhất là thời Minh Mạng trở đi cũng đã khuyến khích cho các làng, xã dựng đình, về cơ bản triều đình nhắc lại đấy là trụ sở, một dấu ấn của triều đình đặt vào các làng xóm xa xôi. Các điều kiện như vậy nên di tích kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo ở thế kỷ 19 được tràn lan khắp nơi. Trên đất Bắc các kiến trúc này còn tương đối rành mạch theo chức năng của loại hình, đồng thời cũng thấy nhiều điện thờ Mẫu và các thần linh liên quan xuất hiện trên các con đường thương mại. Miền Nam nói chung di tích tôn giáo tín ngưỡng vẫn thưa thớt, ngoài nhưng ngôi chùa Khme thì di tích của tộc người chủ thể vẫn còn thiếu vắng và chưa được định hình thành một phong cách, bố cục nhất định. Sợ phân định về tính chất của dình và đền cũng không rõ ràng, kể cả đến công trình điển hình như chùa Giác Lâm.
Tuy nhiên sự ảnh hưởng của triều đình nhà Nguyễn và người Kinh chưa lên được Tây Nguyên, hay nói cách khác là chưa để lại "dấu vết" nào về văn hóa vật thể của tộc người chủ thể trên mảnh đất này.
Chỉ tới thế kỷ 20 những ngôi chùa và một vài di tích khác mới xuất hiện dần theo bước chân người Kinh lên khai phá lập đô thị ở vùng đất này. Có nghĩa chỉ đến thế kỷ 20 dòng kiến trúc nghệ thuật chung mới được gần như thống nhất.
Rõ ràng bằng những di sản văn hóa kiến trúc cụ thể, dù có mang danh nghĩa liên quan đến tôn giáo nhưng thực sự ý nghĩa những công trình kiến trúc này cao hơn cái vỏ tín ngưỡng của nó. Phản ánh về quá trình phát triển của cộng đồng đi tới thống nhất hoàn toàn, mà sự thống nhất hoàn toàn ấy về cơ bản phải là sự thống nhất văn hóa, lấy hạt nhân từ tộc người chủ thể.
Việt Nam trong quá trình phát triển từ địa bàn nhỏ tới lớn thì trong quá khứ chưa lần nào được thống nhất trọn vẹn. Thời Tây Sơn thì tự anh em nhà Nguyễn chia đất nước thành các quốc gia mà mỗi người làm vua một phương. Thời Nguyễn thì vùng cao Tây Nguyên cũng chưa lên được, thời Pháp thì lại chia đất nước thành ba miền với ba chế độ khác nhau... Qua sự phân bố di tích trong quá khứ, ta thấy đất nước chỉ thực sự được thống nhất sau ngày 30/4/1975 mà thôi. Thực tế đã được chứng minh một cách cụ thể nhất ở lĩnh vực kiến trúc.
"Tin Ta mà không hiểu Ta tức là phỉ báng Ta" (lời Phật dạy)