Chùa Âng (Angkorajaborey)
xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
Chùa Âng (Angkorajaborey)
Chùa tọa lạc tại ấp Ba Se B, xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, cách thị xã Trà Vinh hơn 5km về hướng Tây Nam. Chùa nằm trong quần thể di tích Chùa Âng - Ao Bà Om - Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer Trà Vinh.
Kiến trúc chùa mang đậm phong cách kiến trúc chùa Khmer Nam Bộ. Cổng chùa được xây dựng khá đồ sộ, với ba ngọn tháp ở trên. Hai bên được đúc hình chằn Yeak hung tợn và gương mặt Rea Hu ở giữa hai tay cầm mặt trăng (mặt trời) nuốt vào. Hai bên trụ cổng là hình tiên nữ Ken Nar và một Krud có hình dáng kết hợp giữa người và chim - một biểu dạng của chim thần Garuda.Ngôi chính viện Vihia là công trình kiến trúc chính yếu nhất trong khuôn viên ngôi chùa, quay hướng Đông. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Trong chính điện, tượng Phật Thích Ca chính có kích thước rất lớn, với khuôn mặt hiền từ, phúc hậu nổi bật lên giữa các tượng Phật Thích Ca khác được tạc từ nhiều chất liệu khác nhau. Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành mà còn là một trung tâm văn hóa. Sau giờ làm việc hoặc trong những ngày lễ tết, nhân dân quanh vùng thường đến chùa nghỉ ngơi, khai hội vui chơi. Chùa là nơi bảo tồn, lưu trữ và phổ biến những kinh điển, giáo lý, sách báo, tác phẩm văn học nghệ thuật và đồng thời cũng là trường dạy chữ Khmer cho con em và sư sãi trong vùng. Chùa còn là nơi tập trung các công trình kiến trúc mỹ thuật, điêu khắc độc đáo, là nơi thanh niên Khmer đến tu học để trở thành những người có trí thức và đức hạnh.
Trà Vinh hiện có trên 141 ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer, chùa rộng nhất tới 85.000m², hẹp cũng 4.000m². Xung quanh các ngôi chùa thường có nhiều cây cổ thụ, tuổi cây bằng tuổi chùa do truyền thống tự trồng cây trong chùa ngay từ khi khởi dựng. Từ lâu, các rừng cây này còn là nơi cư trú của nhiều loài chim, tạo cho chùa Khmer ở Trà Vinh một cảnh quan thật hấp dẫn.
Angkorajaborey là một trong những ngôi chùa cổ nhất trong hệ thống chùa Khmer ở Trà Vinh. Chùa có kiến trúc cổ, độc đáo, hài hoà trong cảnh sắc thiên nhiên.
Bên cạnh chùa là ao Bà Om cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của Trà Vinh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Xung quanh ao là gò cát cao rợp bóng cây cổ thụ sao, dầu; rất nhiều cây với phần rễ trồi lên mặt đất tạo thành những hình dạng độc đáo. Không khí quanh ao trong lành và mát mẻ. Ðến đây bạn sẽ được nghe những truyền thuyết ly kỳ và hấp dẫn về ao Bà Om.
Ao Bà Om còn được gọi là Ao Vuông vì ao có hình vuông, khuôn viên quanh ao có diện tích rộng 10 hecta, trong đó mặt ao hơn 4 hecta. Tùy theo mùa mà các loài hoa nước như bông súng, bông sen đua nhau bung nở khắp mặt ao, còn có hàng đàn vịt trời (le le) về đây tung tăng bơi lặn, tạo nên phong cảnh rất yên bình và thơ mộng. Bao bọc xung quanh ao là những gò cát chông chênh với gần 500 cây sao, cây dầu hàng trăm năm tuổi, theo thời gian, cát giồng bị bào mòn, rễ cây trồi lên mặt đất thành những hình thù kỳ vĩ trông thật lạ mắt. Cạnh bờ ao là chùa Âng- ngôi chùa Khmer cổ kính thuộc loại bậc nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà đến nay chưa có sử liệu nào ghi chép để biết được ao Bà Om có trước hay ngôi chùa Âng. Nhưng đó là những dấu tích xa xưa còn ẩn mình qua lớp bụi thời gian mà người đời sau đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích về tên gọi của địa danh này.
Câu chuyện sau đây được nhiều người biết đến và được kể lại nhiều nhất vì rất gần gũi với người dân đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là với người Khmer ở vùng đất này. Chuyện kể rằng, ngày xưa ruộng rẫy nơi đây khô cằn, cây cỏ vàng úa, đời sống của người dân vùng đất này rất vất vả. Một vị hoàng tử trấn nhậm trong vùng bèn qui tụ dân chúng lại để đào ao trữ nước ngọt. Ngày xưa, nam nữ muốn lấy nhau nhưng không bên nào chịu ngỏ lời trước vì phải chịu một khoản chi phí rất lớn cho việc mua sắm lễ vật và tổ chức đám cưới cho cả hai họ. Vị hoàng tử đó nhân dịp này phân xử việc này bằng cách chia ra 2 bên nam, nữ tổ chức một cuộc thi đào ao. Qui ước rằng, trong vòng 1 đêm, công việc đào bắt đầu từ lúc trời tối và khi nào sao Mai mọc ở hướng Đông thì kết thúc, nếu bên nào đào xong với diện tích lớn hơn và sâu hơn thì bên đó thắng cuộc, bên thua cuộc phải đi hỏi cưới bên thắng cuộc. Trời vừa tắt nắng hai bắt đầu cuộc thi. Bên nam thì đào ao tròn ở phía Tây gần đó còn bên nữ đào ao vuông ở phía Đông. Bên nữ do bà Om chỉ huy. Biết sức phụ nữ không thể kình lại với sức đàn ông nên bà đã dùng kế. Họ vừa đào vừa ca múa, lại bày tiệc thết đãi, phục vụ rượu cho quý ông để họ lơ là công việc. Riêng ở bên nam ỷ lại vào sức mạnh của mình, xem thường sự yếu đuối của phái nữ nên không chú tâm đến việc đào ao mà chỉ mải mê xem ca hát và uống rượu, đến nửa đêm khi phái nam đã ngà say, bà Om cho treo ngọn đèn trên cây thật cao ở hướng Đông. Theo giao hẹn khi sao Mai mọc là phải ngừng công việc. Khi bên các ông thấy ngọn đèn cứ ngỡ là sao Mai đã mọc lên, nên đi về nghỉ. Trong khi đó bà Om vẫn chỉ huy phái nữ tiếp tục đào ao và hoàn thành tốt công việc của mình cho đến khi sao Mai mọc thật sự mới về. Bên nam thua cuộc trong sự “Tâm phục, khẩu phục”. Kết quả là phái nữ đã thắng cuộc. Kể từ đó, để nhớ ơn người phụ nữ thông minh người ta lấy tên của bà đặt tên ao. Ao phụ nữ đào được gọi là ao Bà Om. Còn cái ao tròn mà phái nam đào hiện nay không còn dấu tích. Và truyền thống nam đi cưới nữ, con phải lấy họ mẹ trong dân tộc Khmer cũng bắt đầu từ đây. Mãi đến sau này khi người Pháp cai trị nước ta thì con mới lấy theo họ cha.
Năm 1994, bộ Văn hóa Thông tin cũng đã quyết định công nhận ao Bà Om là một di tích, danh thắng cấp quốc gia.
st
Kiến trúc chùa mang đậm phong cách kiến trúc chùa Khmer Nam Bộ. Cổng chùa được xây dựng khá đồ sộ, với ba ngọn tháp ở trên. Hai bên được đúc hình chằn Yeak hung tợn và gương mặt Rea Hu ở giữa hai tay cầm mặt trăng (mặt trời) nuốt vào. Hai bên trụ cổng là hình tiên nữ Ken Nar và một Krud có hình dáng kết hợp giữa người và chim - một biểu dạng của chim thần Garuda.Ngôi chính viện Vihia là công trình kiến trúc chính yếu nhất trong khuôn viên ngôi chùa, quay hướng Đông. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Trong chính điện, tượng Phật Thích Ca chính có kích thước rất lớn, với khuôn mặt hiền từ, phúc hậu nổi bật lên giữa các tượng Phật Thích Ca khác được tạc từ nhiều chất liệu khác nhau. Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành mà còn là một trung tâm văn hóa. Sau giờ làm việc hoặc trong những ngày lễ tết, nhân dân quanh vùng thường đến chùa nghỉ ngơi, khai hội vui chơi. Chùa là nơi bảo tồn, lưu trữ và phổ biến những kinh điển, giáo lý, sách báo, tác phẩm văn học nghệ thuật và đồng thời cũng là trường dạy chữ Khmer cho con em và sư sãi trong vùng. Chùa còn là nơi tập trung các công trình kiến trúc mỹ thuật, điêu khắc độc đáo, là nơi thanh niên Khmer đến tu học để trở thành những người có trí thức và đức hạnh.
Trà Vinh hiện có trên 141 ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer, chùa rộng nhất tới 85.000m², hẹp cũng 4.000m². Xung quanh các ngôi chùa thường có nhiều cây cổ thụ, tuổi cây bằng tuổi chùa do truyền thống tự trồng cây trong chùa ngay từ khi khởi dựng. Từ lâu, các rừng cây này còn là nơi cư trú của nhiều loài chim, tạo cho chùa Khmer ở Trà Vinh một cảnh quan thật hấp dẫn.
Angkorajaborey là một trong những ngôi chùa cổ nhất trong hệ thống chùa Khmer ở Trà Vinh. Chùa có kiến trúc cổ, độc đáo, hài hoà trong cảnh sắc thiên nhiên.
Bên cạnh chùa là ao Bà Om cũng là một thắng cảnh nổi tiếng của Trà Vinh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Xung quanh ao là gò cát cao rợp bóng cây cổ thụ sao, dầu; rất nhiều cây với phần rễ trồi lên mặt đất tạo thành những hình dạng độc đáo. Không khí quanh ao trong lành và mát mẻ. Ðến đây bạn sẽ được nghe những truyền thuyết ly kỳ và hấp dẫn về ao Bà Om.
Ao Bà Om còn được gọi là Ao Vuông vì ao có hình vuông, khuôn viên quanh ao có diện tích rộng 10 hecta, trong đó mặt ao hơn 4 hecta. Tùy theo mùa mà các loài hoa nước như bông súng, bông sen đua nhau bung nở khắp mặt ao, còn có hàng đàn vịt trời (le le) về đây tung tăng bơi lặn, tạo nên phong cảnh rất yên bình và thơ mộng. Bao bọc xung quanh ao là những gò cát chông chênh với gần 500 cây sao, cây dầu hàng trăm năm tuổi, theo thời gian, cát giồng bị bào mòn, rễ cây trồi lên mặt đất thành những hình thù kỳ vĩ trông thật lạ mắt. Cạnh bờ ao là chùa Âng- ngôi chùa Khmer cổ kính thuộc loại bậc nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà đến nay chưa có sử liệu nào ghi chép để biết được ao Bà Om có trước hay ngôi chùa Âng. Nhưng đó là những dấu tích xa xưa còn ẩn mình qua lớp bụi thời gian mà người đời sau đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích về tên gọi của địa danh này.
Câu chuyện sau đây được nhiều người biết đến và được kể lại nhiều nhất vì rất gần gũi với người dân đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là với người Khmer ở vùng đất này. Chuyện kể rằng, ngày xưa ruộng rẫy nơi đây khô cằn, cây cỏ vàng úa, đời sống của người dân vùng đất này rất vất vả. Một vị hoàng tử trấn nhậm trong vùng bèn qui tụ dân chúng lại để đào ao trữ nước ngọt. Ngày xưa, nam nữ muốn lấy nhau nhưng không bên nào chịu ngỏ lời trước vì phải chịu một khoản chi phí rất lớn cho việc mua sắm lễ vật và tổ chức đám cưới cho cả hai họ. Vị hoàng tử đó nhân dịp này phân xử việc này bằng cách chia ra 2 bên nam, nữ tổ chức một cuộc thi đào ao. Qui ước rằng, trong vòng 1 đêm, công việc đào bắt đầu từ lúc trời tối và khi nào sao Mai mọc ở hướng Đông thì kết thúc, nếu bên nào đào xong với diện tích lớn hơn và sâu hơn thì bên đó thắng cuộc, bên thua cuộc phải đi hỏi cưới bên thắng cuộc. Trời vừa tắt nắng hai bắt đầu cuộc thi. Bên nam thì đào ao tròn ở phía Tây gần đó còn bên nữ đào ao vuông ở phía Đông. Bên nữ do bà Om chỉ huy. Biết sức phụ nữ không thể kình lại với sức đàn ông nên bà đã dùng kế. Họ vừa đào vừa ca múa, lại bày tiệc thết đãi, phục vụ rượu cho quý ông để họ lơ là công việc. Riêng ở bên nam ỷ lại vào sức mạnh của mình, xem thường sự yếu đuối của phái nữ nên không chú tâm đến việc đào ao mà chỉ mải mê xem ca hát và uống rượu, đến nửa đêm khi phái nam đã ngà say, bà Om cho treo ngọn đèn trên cây thật cao ở hướng Đông. Theo giao hẹn khi sao Mai mọc là phải ngừng công việc. Khi bên các ông thấy ngọn đèn cứ ngỡ là sao Mai đã mọc lên, nên đi về nghỉ. Trong khi đó bà Om vẫn chỉ huy phái nữ tiếp tục đào ao và hoàn thành tốt công việc của mình cho đến khi sao Mai mọc thật sự mới về. Bên nam thua cuộc trong sự “Tâm phục, khẩu phục”. Kết quả là phái nữ đã thắng cuộc. Kể từ đó, để nhớ ơn người phụ nữ thông minh người ta lấy tên của bà đặt tên ao. Ao phụ nữ đào được gọi là ao Bà Om. Còn cái ao tròn mà phái nam đào hiện nay không còn dấu tích. Và truyền thống nam đi cưới nữ, con phải lấy họ mẹ trong dân tộc Khmer cũng bắt đầu từ đây. Mãi đến sau này khi người Pháp cai trị nước ta thì con mới lấy theo họ cha.
Năm 1994, bộ Văn hóa Thông tin cũng đã quyết định công nhận ao Bà Om là một di tích, danh thắng cấp quốc gia.
st