TÌM HIỂU VỀ LỄ BÁI
Ðể giúp cho tất cả mọi người ở mọi tầng lớp xã hội hiểu rõ một cách cặn kẽ cả về Lý lẫn Nghĩa văn tự. Hầu tránh được những ngộ nhận nhầm lẫn mà trên thực tế trong đời sống chúng ta thường nhận biết, cũng như nghe thấy những điều phỉ báng vô minh, hay thực hành lễ bái trong ý thức mê tín dị đoan, hoặc thực hành lễ bái, tu đạo trong sự thiếu hiểu biết, mơ hồ về những việc mà mình đã và đang làm.
Lễ bái khó ai mà xác minh được nó bắt đầu vào những năm tháng nào, ở thời kỳ nào của loài người. Tuy nhiên nếu xét về lịch sử loài người từ cổ chí kim, nơi nào có con người sinh sống thì ở đó đều hình thành lễ nghi hay nghi thức lễ bái. Những nghi thức hay lễ nghi tùy từng địa phương, tùy từng sắc dân chẳng nơi nào giống nơi nào cả, tựu chung ta gọi là: “Lễ bái”. Lễ bái là một cụm từ gồm từ “Lễ” và từ “Bái” kết hợp thành “Lễ bái”. Vậy thế nào là “Lễ” và thế nào là “Bái”? (ở đây tôi không bàn tới vấn đề âm ngữ phổ cập từ tiếng Hán mà chỉ đề cập như là một từ Việt ngữ thông dụng trong dân gian)
Luận về “Lễ”:
Ngày còn nhỏ lúc cắp sách tới trường hay ở trong sinh hoạt hàng ngày ta thường nghe thấy câu thành ngữ: “Tiên học Lễ hậu học Văn” (có nghĩa là Lễ được trọng hơn Văn). Vậy Lễ là một nền văn hóa (chứ không phải là văn học) của một sắc dân, của một dân tộc, một quốc gia. Danh từ chung trong văn học gọi nó là: “Phong tục tập quán” như câu: “Nhập gia tùy tục” hay câu “Gia có Gia phong, Quốc có Quốc pháp” vậy.
Tóm lại Lễ là những cổ tục đã được cấu trúc bằng một thời gian khá dài đi cùng với một lịch sử của một dân tộc hay một Quốc gia (xuyên qua những thể chế hay những triều đại đã trị vì dân tộc hay Quốc gia đó) mà hình thành. Nó được ghi nhận, được chấp nhận trong văn tự cũng như tập quán sinh hoạt trong dân gian. Tới hiện nay ta còn thấy ở đâu đó trong các sắc dân thiểu số với một đời sống lạc hậu man khai, họ có những tập quán thực hành nghi lễ riêng mà theo cách nhìn của thời đại văn minh này cho nó là ngộ nghĩnh man dại. Còn ở thời đại văn minh mà chúng ta đang sống thì sao? Nhìn khắp thế giới ở mọi Quốc gia có mặt trên hoàn cầu này thì ở đâu cũng có Lễ , không phải chỉ một nghi thức Lễ, mà có muôn vàn muôn vạn Lễ khác nhau với muôn hình muôn vẻ. Trên bình diện Quốc gia ta thấy trong một năm có trên chục ngày nghỉ Lễ như Lễ Quốc khánh, Tết lễ, Lễ thành lập triều đại, Lễ sinh nhật của Vĩ nhân có công lập quốc, v.v.., Tôn giáo cũng có Lễ riêng của từng tôn giáo, Gia hộ lại có Lễ riêng của từng gia hộ. Cộng đồng, đoàn thể, cá thể con người cũng có Lễ riêng của h
Phần hình thức: Hình thức là sự trang trí, trưng bày cho một biểu tượng mà qua đó ta có thể phân biệt được “Lễ” đó thuộc về sắc tộc, dân tộc, Quốc gia nào.
Ví dụ: Ðạo Phật thì có Ðức Phật trên Tam Bảo, Ðạo Cơ Ðốc thì có tượng Ðức Chúa v.v...
Phần Lễ Phẩm: Lễ phẩm là những phẩm vật mà con người muốn dâng lên các Bậc vị mà họ tôn thờ, hay mong cầu một sự trợ giúp. Thông qua vật phẩm người ta có thể biết được tính chất của buổi lễ (tức mục đích của nghi lễ) mà kẻ hành lễ mong cầu.
Ví dụ: Lễ Phật thì dâng phẩm vật bằng mâm Ngũ quả (năm thứ trái cây) với các loại hoa. Lễ thánh hay Lễ gia Tiên thường thấy người ta dâng phẩm vật bằng Tam sinh (ba loại động vật là loài biết bay (Ðiểu vật: loài có cánh là biểu tượng), biết lội (Thủy vật: loài Cá là biểu tượng), biết chạy (Ðịa vật: là động vật bốn chân như Heo, Bò, Dê là biểu tượng). Lễ cưới hỏi, Lễ chúc Thọ thường là bánh ngọt, quà tặng, phong bao tiền, vàng,.. Lễ Tang thường là cúng cơm với vòng hoa, phướn, v.v...
Phần nghi thức: Nghi thức là phương cách hành Lễ. Tùy theo những hình thức bài trí cộng với những phẩm vật dâng lễ mà có những phương cách hành lễ khác nhau, cũng qua cách hành lễ mà người ta có thể phân biệt được tính chất của buổi lễ cũng như nhận biết được sắc thái của những thành phần mà người tổ chức thuộc về sắc dân nào, dân tộc nào, quốc gia nào, và mục đích của buổi lễ mong cầu những gì.Và phần nghi thức này luôn luôn bao gồm những nghi thức “Bái”.
Luận về “Bái”:
Bái là hành động của con người thực hành tham gia trong buổi Lễ. Mỗi buổi Lễ có những phương cách “Bái” riêng, tùy theo cách phân định của từng sắc thái dân tộc, quốc gia đã hình thành một phong cách có tính truyền thống lâu đời được lưu giữ và duy trì (có thể có những cải cách, sửa đổi theo tính thời gian, theo sở thích của người lãnh đạo đề đặt thêm).
“Bái” có những hình thức như sau:
Ðứng Bái: (còn có danh từ là Vái, Lạy). Tuy đứng làm lễ nhưng tùy theo phong tục tập quán khác nhau mà động tác Bái có khác nhau.
Qùy Bái: (còn có danh từ là Lạy). Tuy qùy nhưng cũng tùy theo phong tục tập quán mà động tác thực hành cũng khác nhau.
Ngồi Bái: (còn có danh từ là Tọa Tụng,Vái, Lạy). Cũng có nhiều cách thực hành khác nhau theo phong tục tập quán riêng.
Hành Bái: (Bái, lạy trong những nghi thức rước lễ). Hoặc hành Tụng, hành Thiền và cũng có những cách thực hành khác nhau, tùy theo hình thức lễ lạc, tùy theo mỗi tôn giáo.
Ngoài ra còn có những thể cách kết hợp các phương thức trên như đứng lên qùy xuống mới thực hành xong một động tác của Bái v.v…
“Bái” nhằm thể hiện gì trong Ý Niệm của người hành Lễ?
Những phương thức hành Bái (Vái, Lạy) trong các buổi Lễ không phải đơn giản chỉ là việc làm vô bổ, không có ý nghĩa gì hoặc giả chỉ là một thủ thức bày đặt buộc những người tham dự (Hội viên, thành viên, Ðệ tử, Con Chiên, Tín Hữu, v.v…) phải tuân hành một cách mu muội, mù quáng như là một thứ mệnh lệnh trong quân ngũ, hay như một Chiếu Chỉ, một pháp lệnh từ cấp quan quyền ban xuống. Mà ngược lại, mỗi một động tác hành lễ Bái Lạy là một phương pháp hàm dưỡng một nội dung triết lý, luân lý, đạo lý nhằm giáo dục và rèn luyện con người đang sống trong cái cộng đồng của phương thức thực hiện buổi Lễ đó. Do đó mà tùy theo thông lệ của từng dân tộc, quốc gia, tôn giáo mà người ta có những quy ước diễn giải cái Ðạo lý hành xử qua phương pháp của sự Bái lạy. Ý nghĩa của việc chắp hai bàn tay vào nhau (cách hành Bái, Lạy trong Ðạo Phật), cách làm Dấu (cách hành Bái Lạy Chúa trong Cơ Ðốc giáo), cách chụm tay Bái Lạy (của Khổng Giáo), v.v… chắc chắn đều có bao hàm ý nghĩa Ðạo Lý, trong đó được diễn đạt qua phương cách của người hành Lễ
Nói đến Bái Lạy thì không thể không nói đến việc Thờ Phụng hay Thờ Cúng. Cũng có thể nói việc Thờ Phụng hay Thờ Cúng cũng đồng nghĩa với việc Lễ Bái. Nó có khác nhau chăng cũng chỉ là việc dùng ngôn từ để chỉ cùng một sự việc mà thôi, qua cách nói hình dung từ (Thờ Phụng, Thờ Cúng) hay động từ (Lễ Bái).
Việc Thờ Phụng, Lễ Bái là một cổ tục có từ lâu đời của mọi sắc dân, mọi dân tộc và mọi quốc gia. Có thể nói nó đồng hiện hữu cùng với sự có mặt của con người ngay từ thuở sơ khai. Thât khó nói tại sao từ khi có con người cho đến khi hình thành sự thờ phụng lễ bái như vậy. Như là một cấu trúc tự nhiên và cần thiết trong đời sống của con người thì điều tất yếu là việc Thờ phụng, lễ bái phải mang lại niềm tin, tư tưởng cho đời sống của con người và cũng bởi cái lẽ đó mà nó được con người đúc kết duy trì và phát triển, rồi cấu trúc cho nó trở thành một điều hữu dụng cho đồng loại. Cũng chính vì cái lẽ tự nhiên này mà từ ngàn xưa cho tới nay cho dù con người ở mọi nơi trên địa cầu này tuy xa nhau, không có thông tin liên lạc như ngày nay mà khắp mọi nơi, đâu đâu cũng hình thành cho cộng đồng mình, cho quốc gia mình một hình thức Thờ phụng, lễ bái riêng, mà bây giờ ta gọi nó là những phong tục tập quán. Mối quan hệ giữa việc Lễ bái với đời sống của con người là một thực thể đồng tồn tại với con người, và con người không thể thiếu vắng nó được. Con người biết tôn trọng, biết hành xử công việc Lễ bái trong cộng đồng mà mình đang chung sống, đó chính là con người đã biết tu thân. Con người biết Thờ Phụng là con người biết “uống nước nhớ nguồn”, tức là biết gìn giữ nguồn gốc của mình. Chính vì vậy mà từ ngàn xưa nói chung trên toàn thế giới, nói riêng như ở Việt Nam mình, ta thấy từ mỗi gia hộ, mỗi làng xã, mỗi huyện tỉnh, đâu đâu ta cũng thấy các hình thái Thờ Phụng khác nhau, mỗi nơi mỗi cảnh. Tại gia thì có Từ Ðường (nhỏ thì có Ban Thờ), Làng xã, huyện tỉnh thì có Miếu, Ðền, Chùa, Nhà Thờ, tất cả đều là nơi Thờ Phụng.
Việc thực hiện Lễ Bái trải dài theo dòng lịch sử hình thành xã hội và đời sống của loài người, như một cách tự nhiên của tạo hóa, nó nghiễm nhiên trở thành một thứ nhu cầu không thể thiếu được trong mọi lãnh vực sinh hoạt của con người. Nó có một mãnh lực vô hình trợ giúp con người vượt qua nhiều trở lực thiên nhiên mà sức người không thể thắng được. Nó trở thành một điểm tựa vô hình chắc chắc trong niềm tin, là vị cứu tinh của những con người gặp khốn khó cùng cực, kể cả ở những con người gặp nhiều may mắn giàu sang trong kiếp sống của họ. Tất cả những bí ẩn đó cho dù con người có văn minh đến mức nào đi nữa, chắc chắn một điều là không bao giờ tìm được lời giải đáp bằng những chứng minh thực dụng của khoa học.
Như ta đã từng nghe những câu thành ngữ: “Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên”, hay “Cầu được ước thấy”.
Ta thấy rõ là việc Thờ Phụng, Lễ Bái là một truyền thống có từ lâu đời. Nó mang một ý nghĩa thâm sâu huyền diệu rất đắc dụng cho đời sống của con người và có tính giáo dục và hữu ích cho cộng đồng. Để nhận thức rõ và thông hiểu cặn kẽ những Minh triết của người xưa để lại, duy trì và phát triển đúng hướng trong nhận thức, trong tư duy mà hành xử đúng đắn trong những nghi lễ thường nhật. Có như vậy chúng ta mới tận hưởng được những lợi ích kỳ thú vô song từ cội nguồn ban cho chúng ta. Như những lời Minh huấn còn được lưu truyền đến ngày nay: “Gái hưởng Ðức Cha, trai hưởng Phước Mẹ” hay “Nhờ âm Ðức của Tổ Tiên để lại”, hoặc như “Ðức năng thắng số” v.v…
Mặt khác ta đừng nhìn thấy những hiện tượng của một số người vì thiếu hiểu biết cặn kẽ về Lễ Tục của Tiền Nhân mà hành xử sai lệch, thiếu thiện tâm hoặc lợi dụng phong tục tập quán để mê hoặc dân chúng mà thủ lợi. Rồi tỏ ý chê bai, để tự đánh mất niềm tôn kính, mất đức tín ngưỡng mà xa rời buông bỏ thì quả thật là một sự thất thiệt lớn lao cho chính mình.
Giữa Lễ Bái và Tu hành (theo nghĩa là người tu Ðạo bất kể theo một Tôn giáo nào) có sự khác biệt nhau, và có khác biệt một cách rõ ràng. Dù việc Lễ Bái có mang lại nhiều điều và có tính giáo dục, rèn luyện con người hướng thiện, tuy nhiên nó chỉ hạn chế trong cái luân lý của đời sống có tính “Ðạo đức” làm người mà thôi. Còn người có đức Tu hành thì việc Lễ Bái ngoài cái Minh triết như trên đã nói đến, họ hiểu Lễ Bái theo một cái Minh Lý của Ðạo. Mỗi hành động, cử chỉ thực hành trong việc hành lễ, trong mỗi cái lạy, cái bái của họ còn mang tải một Tâm Linh gắn bó, một thể hiện đức tin tín ngưỡng vào một thế giới cụ thể, một vĩ nhân cụ thể mà họ đang tôn kính thờ phụng.
Việc Lễ Bái của thiện nam tín nữ (nói theo đạo pháp là hàng phàm phu tục tử) tại những nơi thờ phụng chỉ biết đặt niềm tin tín ngưỡng của họ trên những sở cầu trông cậy (tức sự cầu xin) vào một Ðấng thiêng liêng nào đó ban phát cho họ, cho dù họ biết việc làm của họ ở trong sự trông đợi thiếu thực tế và không chắc chắn, nhưng họ vẫn hành động dẫu được hay không. Cũng nhờ vào niềm tin tín ngưỡng này mà họ biết “làm lành lánh dữ”, biết hướng thiện trong cuộc sống.
Ðấy chỉ là sự phân biệt cái khác nhau trên thực thể của hành động qua cái niềm tin tín ngưỡng.
Còn cái khác hẳn ở con người tu hành là ở chỗ họ hiểu và sử dụng Lễ Bái như là một phương tiện tu tập bồi đắp cái đức tu của chính họ, qua đó họ tu trong con đường học đạo, hành đạo và tu đạo nhằm đạt tới cái mục tiêu giải thoát ra khỏi quy luật luân hồi của con người là: “Sinh-Lão-Bệnh-Tử”, là được vào cõi Niết Bàn hay lên Thiên Ðường v.v… (theo cách gọi của từng Tôn giáo).
Có nghĩa là mặc dầu có tin vào một Ðấng thiêng liêng tối thượng nào đi nữa thì người tu hành hiểu rõ ràng là không ai có thể giúp, ngoài việc tự bản thân phải dấn thân tu cải và thăng tiến chứ không mơ hồ trông cậy vào sự cầu xin “ơn mưa móc” nào cả. Kết quả của sự tu hành này là sự thụ thắng viên mãn hoàn tất một kiếp số là: Vượt thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, đoạn tuyệt với hồng trần và có thể có những người đạt được những đại nguyện tha độ chúng sinh đồng hoàn viên cõi cội.
Những chuyện bên lề về “Lễ”:
Thời loài người còn ăn lông ở lỗ. Ở trong các hang động, ăn sống nuốt tươi, giống như các loại thú ăn thịt ngày nay. Thời kỳ này chưa khám phá ra lửa để nấu nướng thức ăn. Con người sống thành bầy đàn. Kiểu sống tự nhiên hình thành người đứng đầu đàn, nắm giữ quyền chỉ huy bầy, đàn. Mỗi khi kiếm được con mồi theo lẽ tự nhiên cảm xúc vui mừng bộc lộ, bầy, đàn vui mừng nhảy múa trước khi cùng nhau chia sẻ chiến lợi phẩm. Hành động này sẽ dần trở lên một thông tục trong sinh hoạt đời sống của bầy, đàn. Theo dòng lịch sử phát triển của loài người một cách tự nhiên nó trở thành một Lễ Hội ăn mừng. Bây giờ người ta gọi là Lễ mừng chiến thắng, mừng thắng lợi, mừng được mùa, v.v… và ngày càng được cải biến tăng trưởng bày đặt thành nhiều hình thái Lễ Nghi lớn, nhỏ tùy theo sở thích, điều kiện kinh tế mà thực hiện.
Ngay trong thời kỳ này con người cũng còn nhiều thứ Lễ khác nữa, nhất là khi con người tìm ra lửa và ứng dụng phục vụ cho đời sống của mình, đối phó với thiên nhiên và các động vật khác. Những thành quả do Lửa mang lại và cái sức mạnh của lửa đã giúp con người chiến thắng nhiều thứ, nhiều mặt trong cách đối phó với thiên nhiên, với muông thú. Trong khi đó cái tiềm thức tư duy của con người còn ở mức thấp về sự hiểu biết về nguyên nhân, tác động của những kết quả mà con người thu nhận được, hình thành ra sự sùng bái quyền năng của Lửa, mang lại ảnh hưởng tốt đến đời sống con người. Sự sùng bái tăng trưởng theo tư duy phát triển của con người rồi hình thành nên thông lệ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và cho tới tận ngày nay.
Con người tuy đã đủ trí thông minh vượt xa với các khám phá tự nhiên và các phát minh khoa học. Tuy nhiên về mặt tư duy hay về mặt hình thức biểu tượng vẫn còn nằm trong tầm ảnh hưởng của tư duy đối với nguồn gốc sự tiến bộ và phát triển của loài người đó chính là Lửa, về mặt tôn giáo dưới bất kể một hình thái tôn giáo nào thì Lửa vẫn là những vị Thần đáng kính và đáng sợ.
Chính vì vậy mà con người luôn luôn bị khuất phục trước sức mạnh tàn phá của Lửa. Ðó có thể là nguồn gốc lý do tại sao chúng ta thờ Thần Lửa với những buổi Lễ vô cùng long trọng. Vào các buổi lễ “Thế vận hội thế giới” với truyền thống rước đón ngọn lửa Thần xứ Hy Lạp hẳn đủ mang lại cho ta những cảm nhận thiêng liêng.
Lễ gia Tiên: Con người dần dần phát triển, biết tích lũy lương thực, thực phẩm, Sự tích lũy sơ khai chỉ có tính chất quần thể, sau dần dà do sự phát triển chênh lệch về trí, về lực mà tự nó hình thành sự phân chia. Có thế người khôn kẻ dại, người mạnh kẻ yếu... Những yếu tố tự nhiên đó đưa đẩy con người nảy sinh ra ý niệm chiếm hữu ở cái thế lưỡng nghi tự nhiên tạo lưỡng cực. Người khôn đánh lừa kẻ dại, người mạnh bắt nạt người yếu và ngược lại kẻ dại sống bám vào người khôn, kẻ yếu sống nhờ vào người mạnh...Sự phát triển của loài người hướng từ đời sống sinh hoạt quần thể thành sự sinh hoạt đời sống riêng tư của từng nhóm nhỏ và sau đó thành từng nhóm có tính huyết thống gọi là gia đình. Trong đời sống gia đình thì ông, bà cha mẹ là những người có uy tín nhất và được kính trọng trong mọi sinh hoạt thường nhật. Và vì thế tạo lên một tập tục trong tình cảm, tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình đã hình thành nên sự tôn kính, nhớ thương một khi những người đó qua đời và trở thành một tập tục để tưởng nhớ Tổ tiên.
Loài người hình thành đơn vị gia cư trong cộng đồng xã hội, mỗi nhà thì hình thức thờ tự khác nhau nhưng nhìn chung là một sự thành kính, tưởng nhớ đối với ông bà tổ tiên và những người đã khuất. Hàng năm truyền thống người Việt cũng có ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
(st)
Lễ bái khó ai mà xác minh được nó bắt đầu vào những năm tháng nào, ở thời kỳ nào của loài người. Tuy nhiên nếu xét về lịch sử loài người từ cổ chí kim, nơi nào có con người sinh sống thì ở đó đều hình thành lễ nghi hay nghi thức lễ bái. Những nghi thức hay lễ nghi tùy từng địa phương, tùy từng sắc dân chẳng nơi nào giống nơi nào cả, tựu chung ta gọi là: “Lễ bái”. Lễ bái là một cụm từ gồm từ “Lễ” và từ “Bái” kết hợp thành “Lễ bái”. Vậy thế nào là “Lễ” và thế nào là “Bái”? (ở đây tôi không bàn tới vấn đề âm ngữ phổ cập từ tiếng Hán mà chỉ đề cập như là một từ Việt ngữ thông dụng trong dân gian)
Luận về “Lễ”:
Ngày còn nhỏ lúc cắp sách tới trường hay ở trong sinh hoạt hàng ngày ta thường nghe thấy câu thành ngữ: “Tiên học Lễ hậu học Văn” (có nghĩa là Lễ được trọng hơn Văn). Vậy Lễ là một nền văn hóa (chứ không phải là văn học) của một sắc dân, của một dân tộc, một quốc gia. Danh từ chung trong văn học gọi nó là: “Phong tục tập quán” như câu: “Nhập gia tùy tục” hay câu “Gia có Gia phong, Quốc có Quốc pháp” vậy.
Tóm lại Lễ là những cổ tục đã được cấu trúc bằng một thời gian khá dài đi cùng với một lịch sử của một dân tộc hay một Quốc gia (xuyên qua những thể chế hay những triều đại đã trị vì dân tộc hay Quốc gia đó) mà hình thành. Nó được ghi nhận, được chấp nhận trong văn tự cũng như tập quán sinh hoạt trong dân gian. Tới hiện nay ta còn thấy ở đâu đó trong các sắc dân thiểu số với một đời sống lạc hậu man khai, họ có những tập quán thực hành nghi lễ riêng mà theo cách nhìn của thời đại văn minh này cho nó là ngộ nghĩnh man dại. Còn ở thời đại văn minh mà chúng ta đang sống thì sao? Nhìn khắp thế giới ở mọi Quốc gia có mặt trên hoàn cầu này thì ở đâu cũng có Lễ , không phải chỉ một nghi thức Lễ, mà có muôn vàn muôn vạn Lễ khác nhau với muôn hình muôn vẻ. Trên bình diện Quốc gia ta thấy trong một năm có trên chục ngày nghỉ Lễ như Lễ Quốc khánh, Tết lễ, Lễ thành lập triều đại, Lễ sinh nhật của Vĩ nhân có công lập quốc, v.v.., Tôn giáo cũng có Lễ riêng của từng tôn giáo, Gia hộ lại có Lễ riêng của từng gia hộ. Cộng đồng, đoàn thể, cá thể con người cũng có Lễ riêng của h
Phần hình thức: Hình thức là sự trang trí, trưng bày cho một biểu tượng mà qua đó ta có thể phân biệt được “Lễ” đó thuộc về sắc tộc, dân tộc, Quốc gia nào.
Ví dụ: Ðạo Phật thì có Ðức Phật trên Tam Bảo, Ðạo Cơ Ðốc thì có tượng Ðức Chúa v.v...
Phần Lễ Phẩm: Lễ phẩm là những phẩm vật mà con người muốn dâng lên các Bậc vị mà họ tôn thờ, hay mong cầu một sự trợ giúp. Thông qua vật phẩm người ta có thể biết được tính chất của buổi lễ (tức mục đích của nghi lễ) mà kẻ hành lễ mong cầu.
Ví dụ: Lễ Phật thì dâng phẩm vật bằng mâm Ngũ quả (năm thứ trái cây) với các loại hoa. Lễ thánh hay Lễ gia Tiên thường thấy người ta dâng phẩm vật bằng Tam sinh (ba loại động vật là loài biết bay (Ðiểu vật: loài có cánh là biểu tượng), biết lội (Thủy vật: loài Cá là biểu tượng), biết chạy (Ðịa vật: là động vật bốn chân như Heo, Bò, Dê là biểu tượng). Lễ cưới hỏi, Lễ chúc Thọ thường là bánh ngọt, quà tặng, phong bao tiền, vàng,.. Lễ Tang thường là cúng cơm với vòng hoa, phướn, v.v...
Phần nghi thức: Nghi thức là phương cách hành Lễ. Tùy theo những hình thức bài trí cộng với những phẩm vật dâng lễ mà có những phương cách hành lễ khác nhau, cũng qua cách hành lễ mà người ta có thể phân biệt được tính chất của buổi lễ cũng như nhận biết được sắc thái của những thành phần mà người tổ chức thuộc về sắc dân nào, dân tộc nào, quốc gia nào, và mục đích của buổi lễ mong cầu những gì.Và phần nghi thức này luôn luôn bao gồm những nghi thức “Bái”.
Luận về “Bái”:
Bái là hành động của con người thực hành tham gia trong buổi Lễ. Mỗi buổi Lễ có những phương cách “Bái” riêng, tùy theo cách phân định của từng sắc thái dân tộc, quốc gia đã hình thành một phong cách có tính truyền thống lâu đời được lưu giữ và duy trì (có thể có những cải cách, sửa đổi theo tính thời gian, theo sở thích của người lãnh đạo đề đặt thêm).
“Bái” có những hình thức như sau:
Ðứng Bái: (còn có danh từ là Vái, Lạy). Tuy đứng làm lễ nhưng tùy theo phong tục tập quán khác nhau mà động tác Bái có khác nhau.
Qùy Bái: (còn có danh từ là Lạy). Tuy qùy nhưng cũng tùy theo phong tục tập quán mà động tác thực hành cũng khác nhau.
Ngồi Bái: (còn có danh từ là Tọa Tụng,Vái, Lạy). Cũng có nhiều cách thực hành khác nhau theo phong tục tập quán riêng.
Hành Bái: (Bái, lạy trong những nghi thức rước lễ). Hoặc hành Tụng, hành Thiền và cũng có những cách thực hành khác nhau, tùy theo hình thức lễ lạc, tùy theo mỗi tôn giáo.
Ngoài ra còn có những thể cách kết hợp các phương thức trên như đứng lên qùy xuống mới thực hành xong một động tác của Bái v.v…
“Bái” nhằm thể hiện gì trong Ý Niệm của người hành Lễ?
Những phương thức hành Bái (Vái, Lạy) trong các buổi Lễ không phải đơn giản chỉ là việc làm vô bổ, không có ý nghĩa gì hoặc giả chỉ là một thủ thức bày đặt buộc những người tham dự (Hội viên, thành viên, Ðệ tử, Con Chiên, Tín Hữu, v.v…) phải tuân hành một cách mu muội, mù quáng như là một thứ mệnh lệnh trong quân ngũ, hay như một Chiếu Chỉ, một pháp lệnh từ cấp quan quyền ban xuống. Mà ngược lại, mỗi một động tác hành lễ Bái Lạy là một phương pháp hàm dưỡng một nội dung triết lý, luân lý, đạo lý nhằm giáo dục và rèn luyện con người đang sống trong cái cộng đồng của phương thức thực hiện buổi Lễ đó. Do đó mà tùy theo thông lệ của từng dân tộc, quốc gia, tôn giáo mà người ta có những quy ước diễn giải cái Ðạo lý hành xử qua phương pháp của sự Bái lạy. Ý nghĩa của việc chắp hai bàn tay vào nhau (cách hành Bái, Lạy trong Ðạo Phật), cách làm Dấu (cách hành Bái Lạy Chúa trong Cơ Ðốc giáo), cách chụm tay Bái Lạy (của Khổng Giáo), v.v… chắc chắn đều có bao hàm ý nghĩa Ðạo Lý, trong đó được diễn đạt qua phương cách của người hành Lễ
Nói đến Bái Lạy thì không thể không nói đến việc Thờ Phụng hay Thờ Cúng. Cũng có thể nói việc Thờ Phụng hay Thờ Cúng cũng đồng nghĩa với việc Lễ Bái. Nó có khác nhau chăng cũng chỉ là việc dùng ngôn từ để chỉ cùng một sự việc mà thôi, qua cách nói hình dung từ (Thờ Phụng, Thờ Cúng) hay động từ (Lễ Bái).
Việc Thờ Phụng, Lễ Bái là một cổ tục có từ lâu đời của mọi sắc dân, mọi dân tộc và mọi quốc gia. Có thể nói nó đồng hiện hữu cùng với sự có mặt của con người ngay từ thuở sơ khai. Thât khó nói tại sao từ khi có con người cho đến khi hình thành sự thờ phụng lễ bái như vậy. Như là một cấu trúc tự nhiên và cần thiết trong đời sống của con người thì điều tất yếu là việc Thờ phụng, lễ bái phải mang lại niềm tin, tư tưởng cho đời sống của con người và cũng bởi cái lẽ đó mà nó được con người đúc kết duy trì và phát triển, rồi cấu trúc cho nó trở thành một điều hữu dụng cho đồng loại. Cũng chính vì cái lẽ tự nhiên này mà từ ngàn xưa cho tới nay cho dù con người ở mọi nơi trên địa cầu này tuy xa nhau, không có thông tin liên lạc như ngày nay mà khắp mọi nơi, đâu đâu cũng hình thành cho cộng đồng mình, cho quốc gia mình một hình thức Thờ phụng, lễ bái riêng, mà bây giờ ta gọi nó là những phong tục tập quán. Mối quan hệ giữa việc Lễ bái với đời sống của con người là một thực thể đồng tồn tại với con người, và con người không thể thiếu vắng nó được. Con người biết tôn trọng, biết hành xử công việc Lễ bái trong cộng đồng mà mình đang chung sống, đó chính là con người đã biết tu thân. Con người biết Thờ Phụng là con người biết “uống nước nhớ nguồn”, tức là biết gìn giữ nguồn gốc của mình. Chính vì vậy mà từ ngàn xưa nói chung trên toàn thế giới, nói riêng như ở Việt Nam mình, ta thấy từ mỗi gia hộ, mỗi làng xã, mỗi huyện tỉnh, đâu đâu ta cũng thấy các hình thái Thờ Phụng khác nhau, mỗi nơi mỗi cảnh. Tại gia thì có Từ Ðường (nhỏ thì có Ban Thờ), Làng xã, huyện tỉnh thì có Miếu, Ðền, Chùa, Nhà Thờ, tất cả đều là nơi Thờ Phụng.
Việc thực hiện Lễ Bái trải dài theo dòng lịch sử hình thành xã hội và đời sống của loài người, như một cách tự nhiên của tạo hóa, nó nghiễm nhiên trở thành một thứ nhu cầu không thể thiếu được trong mọi lãnh vực sinh hoạt của con người. Nó có một mãnh lực vô hình trợ giúp con người vượt qua nhiều trở lực thiên nhiên mà sức người không thể thắng được. Nó trở thành một điểm tựa vô hình chắc chắc trong niềm tin, là vị cứu tinh của những con người gặp khốn khó cùng cực, kể cả ở những con người gặp nhiều may mắn giàu sang trong kiếp sống của họ. Tất cả những bí ẩn đó cho dù con người có văn minh đến mức nào đi nữa, chắc chắn một điều là không bao giờ tìm được lời giải đáp bằng những chứng minh thực dụng của khoa học.
Như ta đã từng nghe những câu thành ngữ: “Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên”, hay “Cầu được ước thấy”.
Ta thấy rõ là việc Thờ Phụng, Lễ Bái là một truyền thống có từ lâu đời. Nó mang một ý nghĩa thâm sâu huyền diệu rất đắc dụng cho đời sống của con người và có tính giáo dục và hữu ích cho cộng đồng. Để nhận thức rõ và thông hiểu cặn kẽ những Minh triết của người xưa để lại, duy trì và phát triển đúng hướng trong nhận thức, trong tư duy mà hành xử đúng đắn trong những nghi lễ thường nhật. Có như vậy chúng ta mới tận hưởng được những lợi ích kỳ thú vô song từ cội nguồn ban cho chúng ta. Như những lời Minh huấn còn được lưu truyền đến ngày nay: “Gái hưởng Ðức Cha, trai hưởng Phước Mẹ” hay “Nhờ âm Ðức của Tổ Tiên để lại”, hoặc như “Ðức năng thắng số” v.v…
Mặt khác ta đừng nhìn thấy những hiện tượng của một số người vì thiếu hiểu biết cặn kẽ về Lễ Tục của Tiền Nhân mà hành xử sai lệch, thiếu thiện tâm hoặc lợi dụng phong tục tập quán để mê hoặc dân chúng mà thủ lợi. Rồi tỏ ý chê bai, để tự đánh mất niềm tôn kính, mất đức tín ngưỡng mà xa rời buông bỏ thì quả thật là một sự thất thiệt lớn lao cho chính mình.
Giữa Lễ Bái và Tu hành (theo nghĩa là người tu Ðạo bất kể theo một Tôn giáo nào) có sự khác biệt nhau, và có khác biệt một cách rõ ràng. Dù việc Lễ Bái có mang lại nhiều điều và có tính giáo dục, rèn luyện con người hướng thiện, tuy nhiên nó chỉ hạn chế trong cái luân lý của đời sống có tính “Ðạo đức” làm người mà thôi. Còn người có đức Tu hành thì việc Lễ Bái ngoài cái Minh triết như trên đã nói đến, họ hiểu Lễ Bái theo một cái Minh Lý của Ðạo. Mỗi hành động, cử chỉ thực hành trong việc hành lễ, trong mỗi cái lạy, cái bái của họ còn mang tải một Tâm Linh gắn bó, một thể hiện đức tin tín ngưỡng vào một thế giới cụ thể, một vĩ nhân cụ thể mà họ đang tôn kính thờ phụng.
Việc Lễ Bái của thiện nam tín nữ (nói theo đạo pháp là hàng phàm phu tục tử) tại những nơi thờ phụng chỉ biết đặt niềm tin tín ngưỡng của họ trên những sở cầu trông cậy (tức sự cầu xin) vào một Ðấng thiêng liêng nào đó ban phát cho họ, cho dù họ biết việc làm của họ ở trong sự trông đợi thiếu thực tế và không chắc chắn, nhưng họ vẫn hành động dẫu được hay không. Cũng nhờ vào niềm tin tín ngưỡng này mà họ biết “làm lành lánh dữ”, biết hướng thiện trong cuộc sống.
Ðấy chỉ là sự phân biệt cái khác nhau trên thực thể của hành động qua cái niềm tin tín ngưỡng.
Còn cái khác hẳn ở con người tu hành là ở chỗ họ hiểu và sử dụng Lễ Bái như là một phương tiện tu tập bồi đắp cái đức tu của chính họ, qua đó họ tu trong con đường học đạo, hành đạo và tu đạo nhằm đạt tới cái mục tiêu giải thoát ra khỏi quy luật luân hồi của con người là: “Sinh-Lão-Bệnh-Tử”, là được vào cõi Niết Bàn hay lên Thiên Ðường v.v… (theo cách gọi của từng Tôn giáo).
Có nghĩa là mặc dầu có tin vào một Ðấng thiêng liêng tối thượng nào đi nữa thì người tu hành hiểu rõ ràng là không ai có thể giúp, ngoài việc tự bản thân phải dấn thân tu cải và thăng tiến chứ không mơ hồ trông cậy vào sự cầu xin “ơn mưa móc” nào cả. Kết quả của sự tu hành này là sự thụ thắng viên mãn hoàn tất một kiếp số là: Vượt thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, đoạn tuyệt với hồng trần và có thể có những người đạt được những đại nguyện tha độ chúng sinh đồng hoàn viên cõi cội.
Những chuyện bên lề về “Lễ”:
Thời loài người còn ăn lông ở lỗ. Ở trong các hang động, ăn sống nuốt tươi, giống như các loại thú ăn thịt ngày nay. Thời kỳ này chưa khám phá ra lửa để nấu nướng thức ăn. Con người sống thành bầy đàn. Kiểu sống tự nhiên hình thành người đứng đầu đàn, nắm giữ quyền chỉ huy bầy, đàn. Mỗi khi kiếm được con mồi theo lẽ tự nhiên cảm xúc vui mừng bộc lộ, bầy, đàn vui mừng nhảy múa trước khi cùng nhau chia sẻ chiến lợi phẩm. Hành động này sẽ dần trở lên một thông tục trong sinh hoạt đời sống của bầy, đàn. Theo dòng lịch sử phát triển của loài người một cách tự nhiên nó trở thành một Lễ Hội ăn mừng. Bây giờ người ta gọi là Lễ mừng chiến thắng, mừng thắng lợi, mừng được mùa, v.v… và ngày càng được cải biến tăng trưởng bày đặt thành nhiều hình thái Lễ Nghi lớn, nhỏ tùy theo sở thích, điều kiện kinh tế mà thực hiện.
Ngay trong thời kỳ này con người cũng còn nhiều thứ Lễ khác nữa, nhất là khi con người tìm ra lửa và ứng dụng phục vụ cho đời sống của mình, đối phó với thiên nhiên và các động vật khác. Những thành quả do Lửa mang lại và cái sức mạnh của lửa đã giúp con người chiến thắng nhiều thứ, nhiều mặt trong cách đối phó với thiên nhiên, với muông thú. Trong khi đó cái tiềm thức tư duy của con người còn ở mức thấp về sự hiểu biết về nguyên nhân, tác động của những kết quả mà con người thu nhận được, hình thành ra sự sùng bái quyền năng của Lửa, mang lại ảnh hưởng tốt đến đời sống con người. Sự sùng bái tăng trưởng theo tư duy phát triển của con người rồi hình thành nên thông lệ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và cho tới tận ngày nay.
Con người tuy đã đủ trí thông minh vượt xa với các khám phá tự nhiên và các phát minh khoa học. Tuy nhiên về mặt tư duy hay về mặt hình thức biểu tượng vẫn còn nằm trong tầm ảnh hưởng của tư duy đối với nguồn gốc sự tiến bộ và phát triển của loài người đó chính là Lửa, về mặt tôn giáo dưới bất kể một hình thái tôn giáo nào thì Lửa vẫn là những vị Thần đáng kính và đáng sợ.
Chính vì vậy mà con người luôn luôn bị khuất phục trước sức mạnh tàn phá của Lửa. Ðó có thể là nguồn gốc lý do tại sao chúng ta thờ Thần Lửa với những buổi Lễ vô cùng long trọng. Vào các buổi lễ “Thế vận hội thế giới” với truyền thống rước đón ngọn lửa Thần xứ Hy Lạp hẳn đủ mang lại cho ta những cảm nhận thiêng liêng.
Lễ gia Tiên: Con người dần dần phát triển, biết tích lũy lương thực, thực phẩm, Sự tích lũy sơ khai chỉ có tính chất quần thể, sau dần dà do sự phát triển chênh lệch về trí, về lực mà tự nó hình thành sự phân chia. Có thế người khôn kẻ dại, người mạnh kẻ yếu... Những yếu tố tự nhiên đó đưa đẩy con người nảy sinh ra ý niệm chiếm hữu ở cái thế lưỡng nghi tự nhiên tạo lưỡng cực. Người khôn đánh lừa kẻ dại, người mạnh bắt nạt người yếu và ngược lại kẻ dại sống bám vào người khôn, kẻ yếu sống nhờ vào người mạnh...Sự phát triển của loài người hướng từ đời sống sinh hoạt quần thể thành sự sinh hoạt đời sống riêng tư của từng nhóm nhỏ và sau đó thành từng nhóm có tính huyết thống gọi là gia đình. Trong đời sống gia đình thì ông, bà cha mẹ là những người có uy tín nhất và được kính trọng trong mọi sinh hoạt thường nhật. Và vì thế tạo lên một tập tục trong tình cảm, tâm hồn của mỗi thành viên trong gia đình đã hình thành nên sự tôn kính, nhớ thương một khi những người đó qua đời và trở thành một tập tục để tưởng nhớ Tổ tiên.
Loài người hình thành đơn vị gia cư trong cộng đồng xã hội, mỗi nhà thì hình thức thờ tự khác nhau nhưng nhìn chung là một sự thành kính, tưởng nhớ đối với ông bà tổ tiên và những người đã khuất. Hàng năm truyền thống người Việt cũng có ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
(st)