Đền còn được gọi là Đền Cả, hay đền thờ Tam Toà Đại Vương. Thuộc địa danh: Thôn Chi Phan – xóm Phúc Tiến – Phủ Thạch Hà - Tỉnh Hà Tĩnh. Nay thuộc địa phận xã Thạch Tiến – Huyện Thạch Hà - Tỉnh Hà Tĩnh. Là một trong những ngôi đền cổ các hạng mục còn tương đối đầy đủ và khá đẹp của vùng đất Hà Tĩnh. Hiện nay qua khảo sát và nghiên cứu thực địa tại địa phương và hiện trạng di tích. Di tích đền Nen thờ Lý Nhật Quang ( thái tử thứ 8 của vua Lý thái Tổ ) làm Thành Hoàng. Đền được xây dựng vào thời Lý và được tu tạo vào năm 1724 thời kỳ Hậu Lê. Sau này, đền thờ vọng thêm Mai Hắc Đế và Tô Hiến Thành nên đền Nen có tên gọi là đền thờ Tam toà Đại Vương. Đền Nen được phân bố trên một mặt bằng trên một vùng đất cao, tách riêng với khu vực dân cư. Đền xây dựng theo hướng Nam được bao bọc bởi những cánh đồng lúa và hoa màu của xã Thạch Tiến. Đền với lối kiến trúc nội công ngoại quốc, bố cục trên mặt bằng theo hình chữ nhật với tổng thể các bộ phận kiến trúc đăng đối hài hoà, theo một trục Thần đạo.
Nhìn vào kiến trúc tổng thể của di tích đền Nen, ta thấy một mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật. Các bộ phận kiến trúc của tổng thể khu di tích được bố cục liên hoàn khép kín bằng hệ thống tường dắc bao quanh, nó tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ của lối kiến trúc điển hình thời Lê - Nguyễn.
Thời Lê khi mà Nho giáo thịnh hành thì trong các quy ước về hình mẫu kiến trúc tôn giáo như đền, chùa, miếu mạo…đều phải tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ. Đó là kiểu thức kiến trúc đăng đối quy tụ vào một tâm điểm trên một bình đồ kiến trúc hình chữ nhật của các bộ phận kiến trúc theo tầng, lớp kéo dài cho ta một cảm giác vừa cổ kính uy nghiêm của một công trình kiến trúc mang đậm màu sắc tôn giáo. Mặc dầu tồn tại qua hàng thế kỷ, song vẫn giữ được các bộ phận kiến trúc nguyên mẫu, ta cũng bắt gặp trong mỗi bộ phận kiến trúc của đền Nen hình tượng con rồng uyển chuyển có hồn trong mỗi bức chạm khắc. Nó là biểu tượng của quyền uy và của tâm linh người Việt cổ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc di tích Đền Nen.
Di tích Đền Nen gắn liền với các danh nhân lịch sử như Mai Hắc Đế, Lý Nhật Quang, Tô Hiến Thành, những người đã có công trong công cuộc đánh giặc giữ nước, khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi vùng biên ải phía Nam của nước Đại Việt.
Các thành phần di tích kiến trúc bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch xây với các hình thức thi công khá đặc biệt và cùng với vật liệu truyền thống, các hoạ tiết trang trí điêu khắc trên chất liệu gỗ…câu đối, thần vị, bảng văn, Hán tự còn lưu lại, là những nguốn tư liệu hết sức quý giá giúp chúng ta nghiên cứu về một thời đại, một giai đoạn lịch sử của đất nước.
Mặt bằng tổng thể Di tích bố cục chặt chẽ, đăng đối hài hoà, dù trải qua quá trình tồn tại phát triển khá dài khoảng 300 năm các hạng mục phần lớn vẫn còn giữ nguyên được hình thức kiến trúc, vị trí và giá trị. Các hạng mục gồm nhiều loại hình kiến trúc khác nhau như kết cấu gỗ, kết cấu gạch xây,… Hình thức trang trí và vật liệu vữa truyền thống gồm ( vôi nung từ vỏ sò kết hợp với mật mía, bột rơm nếp, …) khá đặc trưng của vùng Nghệ An , Hà Tĩnh. Kỹ thuật nề ngoã trang trí đặc biệt tinh xảo đến từng chi tiết, bề mặt dù đã trải qua thời tiết khắc nghiệt vài trăm năm nhiều vị trí vẫn giữ được bề mặt chắc mịn và mầu vàng rơm đặc trưng của vật liệu vôi rơm truyền thống.
Sự đan xen niên đại qua các thời kỳ: Đền được khởi dựng vào thời Lý, được tu tạo vào thời Hậu Lê (1724), cho đến những năm 1945 vẫn được bổ xung hạng mục và tu bổ tiếp theo.
Phương án, giải pháp bảo tồn, tu bổ đã sử dụng:
- Gia cố (Consolidation):
Hạng mục Tiền tế chú trọng thay thế vật liệu kết cấu cũ hư hỏng để công trình bền vững, hình thức và chi tiết các cấu kiện thay thế được giữ nguyên. Giữ những cây xanh đã và đang làm nên vẻ đẹp độc đáo của công trình, khi tu bổ cần có những biện pháp thi công đặc biệt (hệ thống giàn giáo nâng đỡ tách hệ thống cây mà không hư hại thêm cho công trình) chăm sóc nuôi dưỡng cây để hệ thống cây xanh bao quanh vẫn là thành phần làm nên cảnh quan độc đáo của tổng thể Di tích …
- Tu bổ (Conservation):
Các hạng mục: Tứ trụ ( Cột nanh), Tắc môn, Tam quan, … Xác định các vị trí bong tróc, sứt vỡ, thổi sạch rêu mốc bằng khí áp lực cao. Với các mẫu tinh xảo tạo dương bản và điều chỉnh đúng theo chi tiết gốc sau đó mới thi công thực tế. Chi tiết thay thế cần được lưu giữ phục vụ cho tu bổ và nghiên cứu sau này. Miếu công đồng, phục hồi hệ thống tường bao hư hỏng, hệ thống mái sụt vỡ được gia cố chống đỡ bóc tách và hạ giải từng phần, tiến hành trám vá hoàn trả lại bề mặt công trình. Nền móng không đảm bảo cho công trình bền vững vì vậy cần gia cố lại nền móng chống sụt lún công trình khi tiến hành phục hồi.
Hạ điện,… các cấu kiện gỗ cột, hoành, rui mái,… tu bổ cần hạ giải đánh giá chi tiết các cấu kiện hư hỏng cũng như cấu kiện có thể tái sử dụng.
- Phục hồi từng phần (Partical restoration):
Thượng điện: Hiện chỉ còn tường móng và các hệ chân tảng, nghiên cứu theo tư liệu và trên các thành phần hạng mục vỡ hỏng còn lưu giữ, trên tổng thể di tích để khôi phục các thành phần đã mất…
Nhà thờ Tiên hiền: Căn cứ trên các thành phần còn lại và sự đăng đối trên kích thước tổng thể mặt bằng của hai nhà để phục hồi lại hạng mục này.
Nhà Tướng: Thành phần bao che phía ngoài còn khá nguyên vẹn, thành phần nề ngoã trang trí bên trong sứt vỡ và hư hỏng khá nhiều cũng cần phục hồi căn cứ trên các tư liệu sưu tầm bổ xung cho di tích hoàn thiện…
- Tôn tạo (Renovation):
Bổ xung hệ thống hạ tầng, cây xanh và hàng rào bảo vệ, hệ thống các hạng mục phụ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng cho thực tế hiện tại của Di tích. Hồ sen sân vườn và hệ thống sân bãi đỗ xe phía ngoài di tích cũng là thành phần không thể thiếu cho sự phát triển và tồn tại của di tích đền Nen trong thời đại hiện nay…
Đưa di tích đền Nen gần như một phế tích để trở thành di tích sống thực sự trong vùng, phục vụ được nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân trong vùng nói riêng và cả nước nói chung. Dự án tu bổ, tôn tạo di tích đền Nen nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hoá, phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Hà Tĩnh nói riêng.
Công trình có các hạng mục kiến trúc thống nhất mang phong cách truyền thống, đáp ứng những nguyên lý cơ bản của xây dựng tôn tạo di tích. Cảnh quan sân vườn tổng thể đẹp đáp ứng nhu cầu về đời sống văn hoá của nhân dân.
Công trình được thiết kế đúng quy trình, quy phạm hiện hành, phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh Hà Tĩnh. Hình thức kiến trúc cổ truyền thể hiện được tính trang nghiêm, đăng đối, cân bằng, vững chắc, phối hợp gắn kết với các di tích thắng cảnh quanh vùng, không trùng lặp và tạo thành quần thể không gian các công trình văn hoá, thắng cảnh.
Định hướng phát triển các ngành kinh tế xã hội đã đưa ra mục tiêu cụ thể với ngành công nghiệp du lịch – dịch vụ. Đó là phát triển du lịch, dịch vụ theo hướng du lịch lịch sử văn hoá, lễ hội. Du lịch cảnh quan, thể thao kết hợp với vui chơi nghỉ dưỡng trên cơ sở nâng cao chất lượng du lịch lễ hội truyền thống của vùng. Đầu tư, tôn tạo di tích lịch sử đền Nen góp phần phát triển ngành du lịch văn hoá, bảo vệ tốt môi trường cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn trong vùng.
Việc đầu tư tu bổ di tích đền Nen tỉnh Hà Tĩnh mang nhiều ý nghĩa chính trị, văn hoá, xã hội. Nhằm xây dựng đời sống kinh tế và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính văn hoá, giáo dục cao. Là một công trình tiêu biểu về nghệ thuật điêu khắc, và điểm liên kết các di tích, danh lam thắng cảnh khác quanh vùng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch của cả vùng.
Ý nghĩa và chất lượng khoa học của dự án:
Hoàn thiện trong các công tác khảo sát nghiên cứu đánh giá hiện trạng Di tích (các niên đại của di tích gồm niên đại khởi dựng và các quá trình trùng tu). Vật liệu nề ngoã truyền thống (vôi vỏ sò, mật, rơm nếp, giấy bản,…) dùng trong quá trình thi công và các lần trùng tu trước.
Cách thức thi công mái dốc nhỏ với kiểu hoành đỡ bằng tre, gỗ. mái dốc liên kết bằng các lớp gạch bát, trên dán ngói mũi.
Tổng thể di tích là sự kết hợp các dạng công trình bằng gạch xây với các hình thức nề ngoã tỉ mỉ mầu sắc sinh động và kết cấu gỗ truyền thống với hình thức chạm lộng tinh xảo. Mặt bằng tổng thể hình chữ nhật với các bộ phận kiến trúc di tích được bố trí liên hoàn khép kín bằng hệ thống tường dắc bao quanh. Thấy được sự tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ của lối kiến trúc điển hình thời Lê – Nguyễn, khi Nho giáo thịnh hành thì các quy ước về hình mẫu kiến trúc tôn giáo như đền, chùa, miếu mạo…đều tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ. Đó là thức kiến trúc đăng đối quy tụ vào một tâm điểm trên một bình đồ hình chữ nhật, các bộ phận theo tầng, lớp kéo dài.
Nhìn vào kiến trúc tổng thể của di tích đền Nen, ta thấy một mặt bằng kiến trúc hình chữ nhật. Các bộ phận kiến trúc của tổng thể khu di tích được bố cục liên hoàn khép kín bằng hệ thống tường dắc bao quanh, nó tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ của lối kiến trúc điển hình thời Lê - Nguyễn.
Thời Lê khi mà Nho giáo thịnh hành thì trong các quy ước về hình mẫu kiến trúc tôn giáo như đền, chùa, miếu mạo…đều phải tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ. Đó là kiểu thức kiến trúc đăng đối quy tụ vào một tâm điểm trên một bình đồ kiến trúc hình chữ nhật của các bộ phận kiến trúc theo tầng, lớp kéo dài cho ta một cảm giác vừa cổ kính uy nghiêm của một công trình kiến trúc mang đậm màu sắc tôn giáo. Mặc dầu tồn tại qua hàng thế kỷ, song vẫn giữ được các bộ phận kiến trúc nguyên mẫu, ta cũng bắt gặp trong mỗi bộ phận kiến trúc của đền Nen hình tượng con rồng uyển chuyển có hồn trong mỗi bức chạm khắc. Nó là biểu tượng của quyền uy và của tâm linh người Việt cổ. Đó chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc di tích Đền Nen.
Di tích Đền Nen gắn liền với các danh nhân lịch sử như Mai Hắc Đế, Lý Nhật Quang, Tô Hiến Thành, những người đã có công trong công cuộc đánh giặc giữ nước, khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi vùng biên ải phía Nam của nước Đại Việt.
Các thành phần di tích kiến trúc bao gồm kiến trúc gỗ, kiến trúc gạch xây với các hình thức thi công khá đặc biệt và cùng với vật liệu truyền thống, các hoạ tiết trang trí điêu khắc trên chất liệu gỗ…câu đối, thần vị, bảng văn, Hán tự còn lưu lại, là những nguốn tư liệu hết sức quý giá giúp chúng ta nghiên cứu về một thời đại, một giai đoạn lịch sử của đất nước.
Mặt bằng tổng thể Di tích bố cục chặt chẽ, đăng đối hài hoà, dù trải qua quá trình tồn tại phát triển khá dài khoảng 300 năm các hạng mục phần lớn vẫn còn giữ nguyên được hình thức kiến trúc, vị trí và giá trị. Các hạng mục gồm nhiều loại hình kiến trúc khác nhau như kết cấu gỗ, kết cấu gạch xây,… Hình thức trang trí và vật liệu vữa truyền thống gồm ( vôi nung từ vỏ sò kết hợp với mật mía, bột rơm nếp, …) khá đặc trưng của vùng Nghệ An , Hà Tĩnh. Kỹ thuật nề ngoã trang trí đặc biệt tinh xảo đến từng chi tiết, bề mặt dù đã trải qua thời tiết khắc nghiệt vài trăm năm nhiều vị trí vẫn giữ được bề mặt chắc mịn và mầu vàng rơm đặc trưng của vật liệu vôi rơm truyền thống.
Sự đan xen niên đại qua các thời kỳ: Đền được khởi dựng vào thời Lý, được tu tạo vào thời Hậu Lê (1724), cho đến những năm 1945 vẫn được bổ xung hạng mục và tu bổ tiếp theo.
Phương án, giải pháp bảo tồn, tu bổ đã sử dụng:
- Gia cố (Consolidation):
Hạng mục Tiền tế chú trọng thay thế vật liệu kết cấu cũ hư hỏng để công trình bền vững, hình thức và chi tiết các cấu kiện thay thế được giữ nguyên. Giữ những cây xanh đã và đang làm nên vẻ đẹp độc đáo của công trình, khi tu bổ cần có những biện pháp thi công đặc biệt (hệ thống giàn giáo nâng đỡ tách hệ thống cây mà không hư hại thêm cho công trình) chăm sóc nuôi dưỡng cây để hệ thống cây xanh bao quanh vẫn là thành phần làm nên cảnh quan độc đáo của tổng thể Di tích …
- Tu bổ (Conservation):
Các hạng mục: Tứ trụ ( Cột nanh), Tắc môn, Tam quan, … Xác định các vị trí bong tróc, sứt vỡ, thổi sạch rêu mốc bằng khí áp lực cao. Với các mẫu tinh xảo tạo dương bản và điều chỉnh đúng theo chi tiết gốc sau đó mới thi công thực tế. Chi tiết thay thế cần được lưu giữ phục vụ cho tu bổ và nghiên cứu sau này. Miếu công đồng, phục hồi hệ thống tường bao hư hỏng, hệ thống mái sụt vỡ được gia cố chống đỡ bóc tách và hạ giải từng phần, tiến hành trám vá hoàn trả lại bề mặt công trình. Nền móng không đảm bảo cho công trình bền vững vì vậy cần gia cố lại nền móng chống sụt lún công trình khi tiến hành phục hồi.
Hạ điện,… các cấu kiện gỗ cột, hoành, rui mái,… tu bổ cần hạ giải đánh giá chi tiết các cấu kiện hư hỏng cũng như cấu kiện có thể tái sử dụng.
- Phục hồi từng phần (Partical restoration):
Thượng điện: Hiện chỉ còn tường móng và các hệ chân tảng, nghiên cứu theo tư liệu và trên các thành phần hạng mục vỡ hỏng còn lưu giữ, trên tổng thể di tích để khôi phục các thành phần đã mất…
Nhà thờ Tiên hiền: Căn cứ trên các thành phần còn lại và sự đăng đối trên kích thước tổng thể mặt bằng của hai nhà để phục hồi lại hạng mục này.
Nhà Tướng: Thành phần bao che phía ngoài còn khá nguyên vẹn, thành phần nề ngoã trang trí bên trong sứt vỡ và hư hỏng khá nhiều cũng cần phục hồi căn cứ trên các tư liệu sưu tầm bổ xung cho di tích hoàn thiện…
- Tôn tạo (Renovation):
Bổ xung hệ thống hạ tầng, cây xanh và hàng rào bảo vệ, hệ thống các hạng mục phụ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng cho thực tế hiện tại của Di tích. Hồ sen sân vườn và hệ thống sân bãi đỗ xe phía ngoài di tích cũng là thành phần không thể thiếu cho sự phát triển và tồn tại của di tích đền Nen trong thời đại hiện nay…
Đưa di tích đền Nen gần như một phế tích để trở thành di tích sống thực sự trong vùng, phục vụ được nhu cầu sinh hoạt văn hoá tâm linh của nhân dân trong vùng nói riêng và cả nước nói chung. Dự án tu bổ, tôn tạo di tích đền Nen nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn hoá, phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Hà Tĩnh nói riêng.
Công trình có các hạng mục kiến trúc thống nhất mang phong cách truyền thống, đáp ứng những nguyên lý cơ bản của xây dựng tôn tạo di tích. Cảnh quan sân vườn tổng thể đẹp đáp ứng nhu cầu về đời sống văn hoá của nhân dân.
Công trình được thiết kế đúng quy trình, quy phạm hiện hành, phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh Hà Tĩnh. Hình thức kiến trúc cổ truyền thể hiện được tính trang nghiêm, đăng đối, cân bằng, vững chắc, phối hợp gắn kết với các di tích thắng cảnh quanh vùng, không trùng lặp và tạo thành quần thể không gian các công trình văn hoá, thắng cảnh.
Định hướng phát triển các ngành kinh tế xã hội đã đưa ra mục tiêu cụ thể với ngành công nghiệp du lịch – dịch vụ. Đó là phát triển du lịch, dịch vụ theo hướng du lịch lịch sử văn hoá, lễ hội. Du lịch cảnh quan, thể thao kết hợp với vui chơi nghỉ dưỡng trên cơ sở nâng cao chất lượng du lịch lễ hội truyền thống của vùng. Đầu tư, tôn tạo di tích lịch sử đền Nen góp phần phát triển ngành du lịch văn hoá, bảo vệ tốt môi trường cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn trong vùng.
Việc đầu tư tu bổ di tích đền Nen tỉnh Hà Tĩnh mang nhiều ý nghĩa chính trị, văn hoá, xã hội. Nhằm xây dựng đời sống kinh tế và phát triển nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, mang tính văn hoá, giáo dục cao. Là một công trình tiêu biểu về nghệ thuật điêu khắc, và điểm liên kết các di tích, danh lam thắng cảnh khác quanh vùng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch của cả vùng.
Ý nghĩa và chất lượng khoa học của dự án:
Hoàn thiện trong các công tác khảo sát nghiên cứu đánh giá hiện trạng Di tích (các niên đại của di tích gồm niên đại khởi dựng và các quá trình trùng tu). Vật liệu nề ngoã truyền thống (vôi vỏ sò, mật, rơm nếp, giấy bản,…) dùng trong quá trình thi công và các lần trùng tu trước.
Cách thức thi công mái dốc nhỏ với kiểu hoành đỡ bằng tre, gỗ. mái dốc liên kết bằng các lớp gạch bát, trên dán ngói mũi.
Tổng thể di tích là sự kết hợp các dạng công trình bằng gạch xây với các hình thức nề ngoã tỉ mỉ mầu sắc sinh động và kết cấu gỗ truyền thống với hình thức chạm lộng tinh xảo. Mặt bằng tổng thể hình chữ nhật với các bộ phận kiến trúc di tích được bố trí liên hoàn khép kín bằng hệ thống tường dắc bao quanh. Thấy được sự tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ của lối kiến trúc điển hình thời Lê – Nguyễn, khi Nho giáo thịnh hành thì các quy ước về hình mẫu kiến trúc tôn giáo như đền, chùa, miếu mạo…đều tuân thủ theo một quy tắc chặt chẽ. Đó là thức kiến trúc đăng đối quy tụ vào một tâm điểm trên một bình đồ hình chữ nhật, các bộ phận theo tầng, lớp kéo dài.